Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng Của Xuân Diệu (Dàn Ý + 19 Mẫu) Phân Tích Vội Vàng Đoạn 1 # Top 10 Xem Nhiều | Ycet.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng Của Xuân Diệu (Dàn Ý + 19 Mẫu) Phân Tích Vội Vàng Đoạn 1 # Top 10 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng Của Xuân Diệu (Dàn Ý + 19 Mẫu) Phân Tích Vội Vàng Đoạn 1 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dàn ý phân tích 13 câu thơ đầu Vội vàng

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng

Phân tích Vội vàng đoạn 1 

Phân tích Vội vàng khổ 1 

Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng

Phân tích đoạn 1 Vội vàng

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng

a) Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam nổi tiếng từ phong trào Thơ mới.

“Vội vàng” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu.

– Khái quát nội dung 13 câu đầu Vội vàng : Ước muốn táo bạo cùng tâm trạng hân hoan chào đón nhưng rồi lại vội vàng và cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian.

b) Thân bài:

* Luận điểm 1: Khao khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên

– Trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách táo bạo nhưng khi đến với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:

Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người.

Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân.

“Nắng” mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui, “hương” mùa xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.

Hành động “tắt nắng”, “buộc gió” là những mong muốn dường như không tài nào thực hiện được bởi lẽ nó đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.

– Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất.

Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương.

Điệp cấu trúc “Tôi muốn… để”, động từ mạnh “tắt”, “buộc” cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện khao khát mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tạo hóa vụt mất khỏi tầm tay.

Nếu thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ muốn níu giữ thời gian ngừng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật.

Cũng bởi thế, khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông: Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.

* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp

– Từ thể thơ 4 chữ, nhà thơ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏ ra, chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa xuân

– Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả.

– “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong hiện tại lúc này.

– Điệp từ “của” lặp lại mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế lần lượt hiện ra, lại thêm phần phong phú, giàu có.

– Nhà thơ sử dụng một loạt biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“tuần tháng mật”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với “ong bướm”, “yến anh” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.

– Tính từ “xanh rì”, “phơ phất” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống

– Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân:

“Tháng Giêng non như một cặp môi gần”

Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp

Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn.

– Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi gần” căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.

Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, và đam mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng mọi giác quan

Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.

“Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ.

* Luận điểm 3: Tâm trạng của thi sĩ

– Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.

– Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.

c) Kết bài

Khái quát lại nội dung 13 câu thơ đầu Vội vàng.

Nêu cảm nhận của em.

……………..

Nhà thơ Thế Lữ từng nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Có thể nói, Xuân Diệu đã mang đến cho thơ ca Việt Nam một “bộ y phục hiện đại”, táo bạo, một cảm hứng chưa từng có chốn non trẻ yên tĩnh này. Mỗi độ xuân về, trái tim non nớt của các thế hệ trẻ lại rung lên những cảm xúc yêu đời nồng nàn, mãnh liệt trước lời ru thấm thía của nhà thơ Xuân Diệu. Một trong những lời ru tình sâu lắng ấy được chuyển tải qua tác phẩm “Vội vàng” – bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ độc đáo của Xuân Diệu. Cả bài thơ là một tình yêu cuộc sống mãnh liệt, một niềm đam mê sống đến nôn nóng, cuồng nhiệt. Đến với 13 câu đầu của bài “Vội vàng” ta sẽ thấy rõ khát vọng táo bạo, lạ lùng của nhà thơ và hình ảnh mùa xuân – vẻ đẹp thiên đường nơi hạ giới.

Rút ra từ tập “Thơ thơ”, Vội vàng là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Mở đầu bài thơ là khổ thơ ngũ ngôn thể hiện ước muốn cháy bỏng của thi sĩ:

Câu thơ ngắn, nhịp nhanh, điệp ngữ liên tiếp, điệp, đảo cấu trúc, khổ thơ như một khúc ca sôi nổi, thiết tha về những khát khao, khát khao nảy sinh từ trái tim nhà thơ. Một thái độ oai nghiêm như muốn đoạt quyền tạo hóa, Xuân Diệu muốn tự mình dập tắt nắng, muốn buộc gió cho sắc hương không phai, nghĩa là Xuân Diệu muốn lưu giữ mãi hương thơm, muốn cho vẻ đẹp của mùa xuân bất tử trên cõi đời. Điệp ngữ “tôi muốn” và thể thơ ngũ ngôn với tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt ấy. Điều này có nghĩa là Xuân Diệu luôn mong muốn một mùa xuân tuyệt vời. Ước muốn, khát vọng của nhà thơ vô cùng lãng mạn. Phải có một tâm hồn thơ yêu đời mãnh liệt đến mức vô tận thì mới có những ham muốn bồng bột, táo bạo và đầy sức trẻ như muốn nâng niu gìn giữ mọi điều tốt đẹp nhất của tạo hóa.

Là nhà thơ của khát vọng giao cảm với cuộc đời, sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên của Xuân Diệu xuất phát từ bức tranh thiên nhiên tươi đẹp đang mơn mởn non tơ. Thiết tha với cuộc sống với tình yêu cuộc sống mãnh liệt, với đôi mắt trong xanh, ngơ ngác và tràn đầy niềm vui, Xuân Diệu đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp đáng yêu say đắm của thiên nhiên và cuộc sống con người trên trần gian, nhưng đẹp nhất, vui nhất và huy hoàng nhất là mùa xuân và tuổi trẻ:

Từ câu thơ năm chữ ngắn gọn, khúc thơ bỗng biến thành câu tám chữ liền mạch với hàng loạt biện pháp nghệ thuật đặc sắc: điệp từ, điệp ngữ, lặp cấu trúc, liệt kê, so sánh. Khổ thơ như được phổ nhạc với âm điệu sôi nổi, thiết tha như tiếng thác dâng trào. Phép liệt kê, điệp ngữ “này đây” được lặp lại liên tiếp trong năm dòng thơ liên tiếp vừa gợi lên sự hiện hữu của hương sắc rực rỡ thiên nhiên, vừa thể hiện niềm vui sướng tột độ của nhà thơ. Điệp từ “của” lặp lại khiến câu thơ có vẻ hơi Tây và mới lạ. Sau từ “của” kết nối bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường hạ xuống trần thế lần lượt hiện ra, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc. Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân. Một nét hồn nhiên vào rạo rực trước vẻ đẹp thất thần của tạo hóa. Lời thơ như một tiếng ngỡ ngàng và sung sướng. Có gì đó như vội vàng quấn quýt, có gì đó như say mê đắm say. Nhà thơ dường như muốn nói bằng một cử chỉ vội vàng, dồn dập rằng: Tất cả vẻ đẹp kỳ diệu, kỳ diệu của mùa xuân và cuộc sống là của ta trong vòng tay ta, vậy còn chờ gì nữa?

Tiếng chim cất lên tưng bừng rộn rã tạo nên một khúc nhạc tình si trong không gian tràn ngập ánh sáng. Mùa xuân tưng bừng, mùa xuân rộn rã đã dần đến cho nhà thơ một niềm vui, niềm ham muốn nắm bắt và muốn hưởng thụ mỗi sáng.

Có ai lại so sánh thiên nhiên, so sánh thời gian với con người… Nhưng Xuân Diệu thì có. Ông luôn lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp, tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh xuân thi sĩ. Đúng là chỉ có nhà thơ mới, một nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong cách phương Tây, mới có tư duy mới mẻ và táo bạo như vậy. Nhà thơ so sánh “tháng giêng” với đôi môi căng mọng của người thiếu nữ đang độ thanh xuân. Tuần tháng mật của mùa yêu thương cũng trở thành mùa vui của bướm ong dập dìu, cành tơ phơ phất đầy nhựa sống, tiếng hót say sưa của cặp yến oanh trở thành khúc tình si, say đắm lòng người và ánh sáng xuân lướt qua hàng mi diễm lệ của người đẹp kiều diễm. Chỉ một từ “ngon” đã bộc lộ hết tâm trạng của Xuân Diệu với thiên nhiên: si mê, say đắm, khao khát được tận hưởng, được nâng niu, được ôm trọn thiên nhiên.

Với Xuân Diệu mọi thứ đều mới mẻ và với đôi mắt xanh non nớt của cái tôi cá nhân, Xuân Diệu đã phát hiện ra rằng thế gian này đẹp nhất vì có con người. Cuộc sống tốt nhất là ở tuổi trẻ, cuộc đời đẹp nhất là vào lúc tuổi xuân. Người ta nếu không biết trân trọng khi còn trẻ, con người sẽ không còn thể tận hưởng điều đẹp đẽ ấy. Nhưng tuổi trẻ sẽ tàn phai theo thời gian nên vì thế nhà thơ phải sống vội vàng. Hai dòng cuối bài thơ luôn là dòng tâm trạng của tác giả, nhưng lúc ấy ông chợt nhận ra, chợt nhớ đến quy luật của thời gian, của tạo hóa:

Dấu hiệu “.” giữa câu thơ, chia đôi dòng chữ thành hai luồng cảm xúc. Đang hả hê trong bữa tiệc sắc đẹp trần gian và reo lên “tôi sung sướng”, nhà thơ đã phải ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống vội vàng tận hưởng. Xuân Diệu biết mình vội vàng, bỏ lỡ thanh xuân, bỏ lỡ tuổi trẻ. Rõ ràng là thời gian chưa đuổi tới, mà nhà thờ đã lo sợ sự chảy trôi. Nói như vậy để thấy rằng nhà thơ Xuân Diệu luôn bị ám ảnh bởi những giai đoạn và quy luật của thời gian. Haicâu thơ như bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say trong vẻ đẹp của cuộc sống, tình yêu vừa có linh cảm bất an, lo lắng của nhà thơ. Chợt nhịp thơ chậm lại, trở nên trầm ngâm, sâu lắng bởi sự thật không thể dùng bàn tay để can thiệp: thời gian qua mau, tuổi trẻ đã đi thì sẽ không trở lại. Qua đây, phải nói rằng Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian, không gian.

Đến đây ta đã hiểu được vì sao mà thi sĩ muốn can dự vào những quy luật muôn đời của tạo hóa để không phải là một ước muốn ngông cuồng nông nổi. Đó là những khát vọng cháy bỏng của Xuân Diệu, ước muốn bất tử hóa của cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vị của cuộc sống.

Tóm lại, 13 dòng đầu bài thơ “Vội vàng” của tác giả Xuân Diệu là những vần thơ tả cảnh lãng mạn, mộng mơ. Đồng thời, qua những câu thơ này, chúng ta rút ra được một quan niệm sống mới mẻ: sống khẩn trương chừng nào còn trẻ, còn “mùa xuân”; Bởi vì cuộc sống có rất nhiều điều tốt đẹp để ngắm nhìn và tận hưởng. Tuy nhiên, sống vội vàng không có nghĩa là sống cẩu thả, hèn nhát; nhưng hãy sống sao cho xứng đáng với những gì cuộc đời ban tặng, hãy sống có trách nhiệm, biết yêu thương và tận hưởng những điều giản đơn nhất!

Mỗi nhà thơ đến với văn đàn đều mang một dấu ấn riêng, mang một cặp mắt mới để lưu dấu trong lòng bạn đọc, nếu đôi mắt thơ của Huy Cận mang nét buồn không gian, thì đôi mắt thơ Xuân Diệu lại là cặp mắt xanh non biếc rờn để bao luyến cảnh sắc nhân gian, để đem trái tim và bầu máu nóng của mình mang đến sức sống cho nhân thế. Khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng đã mang đậm nét hồn ấy.

Tưởng như hồn thơ dạt dào và tươi trẻ của Xuân Diệu đã biến câu thơ thành những dòng nhựa sống chảy tràn từng câu chữ, nhưng không chỉ vậy, Xuân Diệu còn muốn đoạt quyền của tạo hóa để biến trần gian thành một bữa tiệc thắm sắc đượm hương. Ước muốn mãnh liệt này xuất phát từ cái tôi yêu trần thế nồng nàn tha thiết, muốn mang cả bầu thơ túi rượu để được nâng chén cùng thiên nhiên. Với Xuân Diệu, nếu nhân gian chỉ là một bức tranh với những gam màu nhạt nhòa, và những hương sắc nhạt phai thì đó không còn là thế giới mà thi nhân hằng ao ước, hằng ham muốn đem bầu máu nóng và tình yêu của mình để hiến dâng cho nó nữa.

Nếu như ở những dòng thơ mở đầu, là lời tỏ bày mãnh liệt ham muốn được tắt nắng buộc gió để lưu giữ thanh sắc trần gian thì đến những dòng thơ tiếp theo, Xuân Diệu không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên như một mâm tiệc mùa xuân khổng lồ, mà còn đưa đến cho người đọc cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống:

Có thể thấy dưới “cặp mắt xanh non và biếc rờn”, vườn trần gian trong thơ Xuân Diệu không chỉ đơn thuần là sự góp nhặt của những cảnh vật đơn sơ, nhạt vị, mà mỗi ngọn cây lá cỏ, mỗi lời ca điệu hồn đều như uống phải ánh mắt si tình của thi nhân nên cũng lên hương đầy mặn nồng, biến vườn trần thành một vườn xuân. Nào là “tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si…” tất cả đan bện, hòa quyện gắn kết để bức tranh của Xuân Diệu dậy sắc, lên hương. Bức tranh xuân vừa mang màu tươi mới, trẻ trung, lại vừa có những thanh âm đầy trong trẻo, ngọt ngào. Đặc biệt là so sánh táo bạo về tháng Giêng như một cặp môi gần là một cách tân táo bạo và đầy mới mẻ của thi nhân. Lấy cái hữu hình để so sánh với cái vô hình, lấy cái gợi về cảm giác để gợi về thời gian, nhất là lấy ái ân, tình tự để gọi về mùa xuân. Hóa ra trong mắt chàng thi sĩ bao luyến nhân gian bằng tình yêu ấy, tất cả cảnh vật nơi nơi đều là tình yêu, đều là những gì yêu kiều duyên dáng, đều mang mật ngọt của tình tự. Có một điều làm nên nét riêng này ở Xuân Diệu đó là, trước Xuân Diệu các nhà thơ thường chỉ thấy cuộc đời này mang đầy tính chất buồn thảm thê lương. Bà Huyện Thanh Quan ví nó như “cuộc hí trường” biết mấy đau thương, còn Nguyễn Du gọi nó là những “cuộc bể dâu”. Gần Xuân Diệu hơn, Thế Lữ chán ghét thực tại tầm thường mà tìm về với chốn thiên thai hạ giới, để say sưa trong lời ca điệu nhạc, trong chốn bồng lai. Nhưng Xuân Diệu ở ngay trong đoạn thơ này, với những dòng cảm xúc nóng hổi bao luyến nhân gian, rồi phác họa chúng lên tràng viết, đã cho ta thấy cuộc đời vẫn lộng lẫy, tươi vui, và đáng sống, và nó như một bữa tiệc trần gian để con người say sưa trong men say của tình tự. Cho nên Hoài Thanh với đánh giá rằng: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”.

Xuân Diệu tưởng như chỉ là một chàng thi sĩ nhạy cảm tinh tế, đem theo hồn thơ của mình để mang phấn thông của tình yêu đến muôn nơi, để cùng nhau say sưa trong bầu thơ của thi nhân, để con người nhận ra rằng cuộc đời này đáng sống, hãy biết cách trân trọng cuộc sống trần thế.

Vào những năm 1932 – 1945 ở thế kỉ trước, trên Thi đàn văn học Việt Nam ta dễ dàng bắt gặp những “nhà thơ mới”. Họ đi tìm cho mình những lối đi mới, tìm cho mình những cấu tứ mới và phong cách nghệ thuật mới. Trong đó, tiêu biểu nhất trong phong trào này phải kể đến nhà thơ Xuân Diệu. Ông là nhà thơ “mới nhất trong những nhà thơ mới”. Xuân Diệu được mệnh danh là “ông vua của thơ tình”, là “hoàng tử của tình yêu”. Nhà thơ này có cái “tôi” rất riêng biệt, vô cùng cá tính và đầy bản lĩnh. Bài thơ “Vội vàng” tuy không phải là một bài thơ tình, nhưng nó lại là một tác phẩm nổi trội của phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ cho ta thấy được những triết lý, quan niệm sống mới mẻ và vẫn đúng cho tới tận ngày nay. 13 câu thơ đầu tác phẩm chính là một bức họa ngập tràn màu sắc dưới ngòi bút tinh tế của tác giả.

Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu viết:

Bốn câu thơ ngũ ngôn kết hợp với phép điệp ngữ, điệp cấu trúc “tôi muốn” đã bày tỏ thật rõ ràng khao khát và mong muốn của tác giả. Nói nhà thơ Xuân Diệu có cái “tôi” cá nhân đầy bản lĩnh quả là không sai. Ông muốn “tắt nắng” để màu sắc cuộc đời không phai đi. Ông muốn ” buộc gió” để mùi hương cuộc sống chẳng bay mất. Những mong muốn, ước vọng đôi khi thật ngông cuồng và khó tả. Tác giả đang muốn thay đổi, níu kéo những quy luật, dòng chảy của thiên nhiên, của tạo hóa. Người thanh niên mới vừa đôi mươi ấy, muốn ngưng đọng thời gian, ngưng đọng năm tháng để lưu giữ lại vẻ đẹp, sắc hương cho nhân thế.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”, vậy nên có thể nói, những câu thơ dài tiếp theo chính là bức tranh đã được nhà thơ vẽ nên bằng những nét thật sinh động và xinh xắn:

Điệp từ “này đây” được lặp đi lặp lại nhiều lần, tác giả muốn khẳng định cảnh này, vật này chính là một thiên đường trần gian, một thiên đường không phải ở đâu xa mà tồn tại ngay trên mặt đất. Đồng thời, “này đây” cũng giống như một lời mời gọi quyến rũ, thúc giục mọi người mau mau tới đây thưởng thức, tận hưởng. Bức tranh thiên nhiên mà Xuân Diệu vẽ ra, có màu sắc (xanh rì), có hương vị (mật ngọt), có hình khối (hoa, lá) và có cả đường nét (cành tơ phơ phất). Cụm từ “yến anh” không chỉ dùng để nói tới những loài chim mùa xuân – chim yến, chim oanh – mà còn dùng để nói về những nam thanh nữ tú, sóng bước bên nhau cùng đi du xuân. Dường như, thiên đường mật ngọt mà Xuân Diệu đã vẽ nên, chính là một “mảnh vườn tình ái” đầy mơ mộng, ngọt ngào. Bởi trong những dòng thơ, vạn vật đều đang say sưa, ngập tràn hạnh phúc, vạn vật đều đã có đôi, có cặp.

Câu thơ tiếp theo mới thật là đẹp đẽ và mới mẻ làm sao:

“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”

Từ xưa tới nay, thiên nhiên luôn luôn là chuẩn mực của mọi cái đẹp và rất phổ biến trong thi ca. Ví dụ như trong câu thơ: ” Phù dung như diện, liễu như mi”, ý nói tới người con gái có gương mặt đẹp như hoa phù dung, đôi mắt, đôi mi, lông mày đẹp như lá liễu. Nhưng với Xuân Diệu, quan điểm của ông hoàn toàn ngược lại. Tác giả lấy con người làm biểu tượng, hình mẫu, làm chuẩn mực cho cái đẹp, cho thiên nhiên vạn vật. Chưa bao giờ ta lại thấy hình ảnh vầng thái dương dịu dàng và e ấp đến thế. Xuân Diệu ví ánh sáng Mặt Trời với đôi hàng mi cong mềm mại, nhẹ nhàng. Thật đẹp!

Và rồi, mỗi ngày của tuổi trẻ, đều là một ngày vui, một ngày hạnh phúc ngập tràn:

Có ai lại đi ví thiên nhiên, ví thời gian với con người… Nhưng Xuân Diệu đã làm thế. Đúng là, chỉ có một nhà thơ mới, một nhà thơ chịu ảnh hưởng nhiều từ phong cách phương Tây mới có thể có suy nghĩ mới mẻ và táo bạo đến thế. Nhà thơ so sánh “tháng giêng” với đôi môi căng mọng của người thiếu nữ đang ở độ tuổi xuân thì. Chỉ một từ “ngon” đã bộc lộ hết thảy tâm trạng của Xuân Diệu với thiên nhiên: ông si mê, ông đắm đuối và khao khát được tận hưởng, được nâng niu, được nắm trọn thiên nhiên.

Hai câu thơ cuối của đoạn thơ vẫn là những dòng tâm trạng của tác giả, nhưng lúc này ông đã chợt nhận ra, chợt nhớ tới quy luật của thời gian, tạo hóa:

Dấu “.” ở giữa câu thơ, chia dòng chữ ra làm đôi: trong một câu thơ, có tới hai luồng cảm xúc. Xuân Diệu đang sung sướng, hạnh phúc tột độ khi được đắm mình trong thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nhưng rồi ngay lập tức ông đã biết vội vàng, tiếc nuối mùa xuân, tiếc nuối tuổi trẻ. Rõ ràng, thời gian vẫn còn chưa đuổi tới, mà tác giả đã lo sợ sự chảy trôi. Vậy mới nói, nhà thơ Xuân Diệu luôn luôn bị ám ảnh bởi bước đi và quy luật của thời gian.

Tóm lại, 13 câu thơ đầu trong bài thơ “Vội vàng” của tác giả Xuân Diệu là những câu thơ tả cảnh đầy lãng mạn và mộng mơ. Đồng thời, qua những câu thơ ấy, ta rút ra được một quan niệm sống mới mẻ: hãy sống vội vàng nhân lúc còn trẻ, còn “xuân”; bởi cuộc sống vô cùng nhiều những thứ tươi đẹp để cho ta nhìn ngắm, hưởng thụ. Tuy nhiên, sống vội vàng không có nghĩa là sống cẩu thả, buông lơi; mà hãy sống sao cho xứng đáng với những gì mà cuộc đời ban tặng, hãy có trách nhiệm, biết yêu và tận hưởng từ những điều nhỏ nhặt đơn giản nhất!

Nhà thơ Thế Lữ đã từng có nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Có thể nói, Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một “bộ y phục tối tân”, táo bạo, một “cảm hứng dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”. Cứ mỗi độ xuân về, trái tim non của những thế hệ trẻ lại rung lên với cảm xúc yêu đời tha thiết, mãnh liệt trước lời ru yêu đời mà thấm thía của Xuân Diệu. Một trong những lời ru yêu đời thấm thía ấy được gửi gắm qua tác phẩm “Vội vàng” – một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ độc đáo của Xuân Diệu. Cả bài thơ là niềm yêu đời mãnh liệt, lòng ham sống đến bồng bột, cuồng nhiệt. Đến với 13 câu đầu trong “Vội vàng”, chúng ta sẽ thấy rõ được ước muốn táo bạo, kì lạ của thi sĩ và bức tranh xuân – vẻ đẹp thiên đường trên mặt đất.

Rút ra từ tập “Thơ thơ”, Vội vàng là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Mở đầu bài thơ là khổ thơ ngũ ngôn thể hiện ước muốn cháy bỏng của thi sĩ:

Câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh liên tiếp các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, khổ thơ như khúc ca sôi nổi, say mê về những ước muốn khát khao cất lên từ trái tim của thi sĩ. Muốn tắt nắng, muốn buộc gió để màu đừng nhạt, hương đừng phai, nghĩa là Xuân Diệu muốn níu giữ mãi hương thơm sắc thắm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế. Nghĩa là Xuân Diệu muốn mãi mãi một mùa xuân tuyệt vời. Ham muốn, khát vọng của thi sĩ thật vô cùng lãng mạn. Phải là một hồn thơ yêu đời ham sống mãnh liệt đến vô bờ mới có những ham muốn bồng bột, táo bạo ấy.

Là một nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, say mê cuộc đời bằng một niềm yêu đời mãnh liệt, bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, ngơ ngác và đầy vui sướng, Xuân Diệu đã phát hiện ra bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng say đắm của thiên nhiên và cuộc sống con người nơi trần thế mà đẹp nhất, vui nhất, lộng lẫy nhất chính là mùa xuân và tuổi trẻ:

Từ những câu thơ ngũ ngôn ngắn gọn, khúc thơ bất ngờ chuyển sang những câu thơ tám chữ liền mạch với hàng loạt biện pháp nghệ thuật đặc sắc: điệp từ, điệp ngữ, lặp cấu trúc, liệt kê, so sánh. Âm điệu thơ sôi nổi, háo hức cuồn cuộn như dòng thác dâng trào. Phép liệt kê và điệp ngữ “này đây” lặp lại liên tiếp trong năm câu thơ vừa gợi cái từng bừng rạo rực của thiên nhiên vừa diễn tả niềm hân hoan, vui sướng tột độ của thi sĩ. Điệu thơ như tiếng rao vu, ngỡ ngàng sung sướng. Có cái gì như vội vàng quấn quýt, có cái gì như đắm đuối mê say. Nhà thơ như muốn nói trong cử chỉ vội vàng, trong nhịp điệu dồn dập rằng: Mọi vẻ đẹp tuyệt vời kì diệu của mùa xuân và sự sống là của chúng ta đang trong vòng tay ta, lại còn chần chừ gì nữa mà không mau tận hưởng.

Với nhiều người, mùa xuân là mùa tuyệt diệu nhất trong năm. Bởi thế có cả một dòng xuân bất tận và quyến rũ trong thơ ca. Có thể kể ra đây “Cảnh ngày xuân” trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Mưa xuân (Nguyễn Bính), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) nhưng hiếm có mùa nào lộng lẫy sắc hương và rạo rực xuân tình như mảnh vườn xuân trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. Và cũng hiếm có thi sĩ nào say mê, đắm đuối vẻ đẹp mùa xuân như Xuân Diệu. Mùa xuân hiện ra với những thảm cỏ biếc rời mơn mởn, lá non cành tơ phơ phất, hoa nõn nà khoe sắc dâng hương, trao mật ngọt ong bướm đắm say, ái ân tình tự giữa tuần tháng mật, yến anh quấn quýt bên nhau cùng cất lên khúc tình say đắm. Và mỗi sớm ban mai của mùa xuân mới thật lộng lẫy quyến rũ:

Trong trí óc non nớt ngây thơ của trẻ con, bình minh là lúc ông mặt trời thức dậy vén màn mây bước ra nhoẻn miệng cười thật tươi. Con trong hình dung của Xuân Diệu – nhà thơ lãng mạn mới nhất trong các nhà thơ mới, bình minh là lúc nữ thần mặt trời choàng tỉnh dậy sau giấc mộng êm đềm chớp chớp hàng mi. Muôn ngàn tia sáng lung linh huyền ảo từ đôi mắt ấy buông tỏa xuống trần gian tưới nhựa sống dào dạt cho muôn loài, trao niềm vui, gõ cửa mỗi nhà. Thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu là đúng:

Hoặc có khi ông khao khát đến cháy bỏng:

Với Xuân Diệu, mỗi ngày sống là một ngày vui, mỗi mùa xuân là một mùa vui bất tận. Không phải đây là lần đầu tiên và duy nhất, vẻ đẹp của ánh sáng hiện ra lộng lẫy và kiêu sa như vậy. Trong “Trường ca” và “Rạo rực”, Xuân Diệu cũng lấy vẻ đẹp của người thiếu nữ để ví von, so sánh như thế:

Mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đẹp

(Trường ca)

(Rạo rực)

Cách cảm nhận vẻ đẹp của ánh mặt trời mùa xuân thật lạ, thật gợi cảm nhưng lại nhất phải kể đến hình ảnh ”Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Có thể nói thơ Việt chưa bao giờ có cách cảm nhận mới lạ như thế này. Thường thấy tháng Giêng đẹp, ngày xuân vui chứ chưa bao giờ thấy ai cảm nhận là ngon như Xuân Diệu. Vẻ đẹp của tháng Giêng được thi sĩ cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn bằng cả vị giác, xúc giác và bằng cả tâm hồn yêu đời, khát sống đến bồng bột, cuồng nhiệt. Ta thấy ở đây có dấu vết của phép tương giao trong thơ tượng trưng Pháp. Đó là màu sắc rất Tây của thơ Xuân Diệu. Chưa hết, thi sĩ còn so sánh độc và lạ gợi nhiều thú vị liên tưởng cho người đọc. Tháng Giêng ngọt ngào mê đắm như nụ hôn tình ái.

Như một thước phim sống động, khúc thơ làm hiện ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân vô cùng độc đáo và lộng lẫy: rộn rã những âm thanh tình tứ, rực rỡ ánh sáng tinh khôi, nồng nàn hương thơm sắc thắm và ngọt ngào men say ái tình. Mùa xuân có khác nào một thiên đường trên mặt đất, rạo rực sức sống, một mảnh vườn tình ái mà vạn vật đang đua nhau khoe sắc dâng hương, đắm đuối xuân tình. Như vậy, đọc những câu thơ mở đầu của “Vội vàng”, ta thấy được phần nào cái yêu đời đến cuồng nhiệt, cái khát sống đến bồng bột, mãnh liệt của Xuân Diệu. Quả không sai khi nói ông là nhà thơ lãng mạn mới nhất trong các nhà thơ mới.

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới với hồn thơ tiêu biểu cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, con người và rạo rực khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. “Vội vàng” không chỉ là thi phẩm đặc sắc nhất trong tập thơ Thơ – bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian mà còn là bài thơ hay nhất cả cuộc sống sáng tác của ông. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. 13 câu đầu là đoạn thơ hay nhất thể hiện tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của thi nhân với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

Với “Vội vàng” nhà thơ đã xây lầu thơ giữa vẻ đẹp cuộc đời. Bài thơ hấp dẫn người đọc không chỉ bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn mang đến sự trải nghiệm mới mẻ về sự cách tân nghệ thuật độc đáo của một hồn thơ mới Xuân Diệu.

Mở đầu bài thơ tác giả bày tỏ thái độ oai nghiêm như muốn đoạt quyền tạo hóa.

Điệp ngữ “tôi muốn” và thể thơ ngũ ngôn với tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt của thi sĩ. Đó là ước muốn tắt nắng buộc gió để “màu đừng nhạt mất” để “hương đừng bay đi”. Nếu thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ muốn níu giữ thời gian ngưng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật. Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào mà mong manh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng niu và gìn giữ.

Là một nhà thơ khát khao giao cảm với đời, sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên của nhà thơ phải chăng xuất phát từ bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế đang mơn mởn non tơ.

Như ngàn lời mời gọi, điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần từ đầu đến cuối đoạn thơ trên, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả. “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không phải ở kiếp khác, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong lúc này.

Điệp từ “của” lặp lại khiến câu thơ có vẻ hơi Tây và mới lạ. Sau từ “của” mang tính chất kết nối ấy bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế lần lượt hiện ra, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc. Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân.

Chính cái nhìn trẻ, cặp mắt xanh non biếc rờn luôn lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp đã tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh xuân của thi sĩ. Tuần tháng mật của yêu thương vội chốc trở thành mùa vui của bướm ong dập dìu, cành xuân đã hóa thành cành tơ phơ phất đầy nhựa sống, tiếng hót say sưa của chim yến, chim oanh trở thành điệu tình si say đắm lòng người và bình minh xuân diễm lệ mang gương mặt của người đẹp kiều diễm với rèm mi ánh sáng.

Bằng tâm hồn phong phú và trí tưởng tượng dồi dào của mình với câu thơ:

“Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa”

Thi nhân đã tạo ra sự bất ngờ đầy thú vị bởi sự liên tưởng bất ngờ hết sức độc đáo. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại Hy Lạp xưa, cũng có thể là vị thần mang niềm vui ban tặng cho thế gian vào mỗi buổi sớm ban mai, đánh thức mọi người dậy để tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng. Và trong niềm hân hoan vui sướng đó ngòi bút của Xuân Diệu thật sự rất xuất thần, ông đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Có thể nói, trước Xuân Diệu, chưa có ai “tỏ tình” với thiên nhiên như vậy. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn. Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi gần” căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ. Từ ngon được thốt lên đầy khát khao, nhục cảm bởi nhà thơ đã huy động mọi giác quan: từ thị giác, thính giác, vị giác đến xúc giác để tận hưởng thiên nhiên, tuổi trẻ và cuộc đời này. Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa. “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ đầy sâu sắc.

Nhưng ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”

Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.

“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian.

Trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ xuân diệu nhất. Bằng một hình thức nghệ thuật điêu luyện, sự kết hợp nhuần nhị giữa cảm xúc mong manh và mạch luận lý, giọng điệu say mê, sôi nổi cùng với những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Qua 13 câu đầu, Xuân Diệu đã đem đến một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn tích cực: Trong thế gian này đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu; thiên đường chính là cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thiết tha yêu, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến để mỗi ngày qua đi ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc.

Phân tích 13 câu thơ đầu bài Vội Vàng của Xuân Diệu cho con người ta thấy được: Thời gian là một cái không bao giờ trở lại, nó như một vòng tuần hoàn, đến rồi đi. Và đi một cách vội vã, mà con người không thể tự xoay chuyển nó được đó chính là nỗi lòng của Xuân Diệu muốn nói đến ở đây. Xuân Diệu muốn khuyên con người chúng ta không nên để thời gian trôi qua một cách vô ích mà phải biết quý trọng, tôn trọng thời gian.

Mở đầu bài thơ, là một nỗi lòng của chính tác giả các động từ tắt, buộc có thể có thể nói nếu là một đồ vật thì có thể con người làm được, nhưng cái mà tác giả muốn tắt, muốn buộc lại đó là hương thơm, là sức sống cái nắng mới của thiên nhiên của đất trời.

Qua bốn câu thơ này, tác giả muốn nhấn mạnh rằng cái mà của thiên nhiên đất trời không bao giờ chúng ta giữ nó lại được. Và nó sẽ mãi đi, liên hoàn như một vòng tuần hoàn. Ở các câu thơ còn lại đó là một bức tranh thiên nhiên và số phận của mỗi con người. ở đây tác giả muốn nói khi sống chúng ta phải biết chiêm ngưỡng vẽ đẹp, cuộc sống của thiên nhiên, đừng để nó đó mà không có ai chiêm ngưỡng hay hưởng thụ. Các từ ngữ giàu sức phong phú và sống động. của các loài động vật nhỏ bé nhưng đủ để con người ta nhìn nhận và đánh giá về cuộc sống muôn màu của thiên nhiên.

Bến cạnh khung cảnh của thiên nhiên đó, là sự ra đi của con người cũng không biết là lúc nào. Khi vui thì thần cửa đến gõ cửa lúc nào không hay có thể nói sự sống chết của con người phụ thuộc vào số phận vận mệnh của người đó. Như vậy mình không biết cuộc đời của mình ra sao thì hãy cồ gắng chiêm ngưỡng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Đừng bao giờ để nó trôi đi một cách vội vã và vô ích.

Qua đoạn thơ này, tác giả muốn nói rằng, con người khi còn trẻ phải biết hưởng thụ, đừng để thời gian bỏ phí đi. Bên cạnh đó còn nhấn mạnh khi lớn tuổi rồi thì sự sống chết của chúng ta không biết ra đi vào lúc nào. Vì vậy cần phải tôn trọng giá trị của cuộc sống, tôn trọng thời gian.

Xuân Diệu là ông hoàng của tình yêu, dù đó là tình yêu gì đi chăng nữa thì nó vẫn ngọt ngào đầy xúc cảm. Ông còn được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Những sáng tác, những bài thơ của ông đem đến cho người đọc một sự yêu đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm khao khát cuộc sống đến mãnh liệt cùng với đó là một hồn thơ mới lạ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới mẻ. Trong số đó, tiêu biểu có bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ hay thể hiện tư tưởng đáng quý đó của tác giả, và 13 câu đầu đã để lại những ấn tượng khó quên cho người đọc. Những tư tưởng triết lí cũng thế mà được gửi gắm chân thành tự nhiên.

Để mang niềm yêu cuộc sống đến trào dâng, nhà thơ luôn có cảm xúc vội vàng trước cuộc sống ngắn ngủi. Mọi thứ trên đời mang vị ngọt tới nhưng chỉ một lần rồi thôi, ta đâu có đủ thời gian cho những quả ngọt đó được nếm một lần nữa. Không vội vàng, không chạy tới để ôm trọn những gì đang có thì làm sao mà cảm nhận hết vẻ đẹp của đời. Khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ khiến giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Đại từ mà tác giả Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên là tôi, chứ không phải “ta” hay chúng ta và cùng với đó là động từ “ muốn”- “ tôi muốn. Nhà thơ đang thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, rất ít dám thể hiện cái Tôi của bản thân mình. Đây cũng chính là một điểm mới của nhà thơ trong nền văn thơ hiện lúc bấy giờ. Qua đó thể hiện khát khao mãnh liệt về cuộc sống

Yêu cuộc sống này cho nên mọi thứ tác giả muốn làm đó có thể là tắt nắng đi, buộc gió lại. Những từ “ tắt” buộc” được sử dụng cho những điều hữu hình cầm nắm được vậy mà tác giả lại dùng cho những sự vật không bao giờ chúng ta có thể làm được. Ta có thể thấy màu vàng của nắng, cảm nhận được hơi ấm từ nó, gió có thể thổi qua, táp vào mặt, mơn man da thịt, có thể thấy gió đung đưa bên những cành liễu.. nhưng chẳng bao giờ cầm được nắng nắm được gió. Một điều tưởng chừng như vô lí đó nhưng lại trở thành khát khao của tác giả. Những thứ đó để làm gì: “ để hương đời đừng nhạt đi, để màu sắc cuộc sống vẫn nguyên vẹn, không úa tàn”Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật cả trong nhịp của câu thơ, thể hiện ở chỗ câu thơ đang năm chữ bỗng chuyển xuống 8 chữ.

Đây là một chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt ta bức tranh xuân tuyệt diệu. Bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây, vừa trùng điệp vừa biến hoá. Những câu thơ gợi ra một con người đang mê man, đắm đuối, cuống quýt trước mùa xuân đang trải ra cuộc đời. Đó không chỉ là một bức tranh xuân, còn là cách để tác giả nói đến cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ, của tình yêu.

Vì vậy, “ong bướm, yến anh”được nhắc tới đây, bởi nó gợi ra vẻ lả lơi, tình tứ, và “bướm lả ong lơi “gợi ý niệm về mùa xuân và tình yêu. Khúc nhạc của tình yêu, của những đôi tình nhân và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. Bên cạnh đó, chữ “của” trở đi trở lại được tác giả sử dụng cùng với “này đây” như một cặp không thể tách rời. Đây là cách Xuân Diệu biểu hiện cảm xúc trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống tròn trịa có đôi có cặp. Những mĩ từ được sử dụng mang tính gợi hình cao “Hoa nở” trên nền “xanh rì” của đồng nội bao la, “lá” của “cành tơ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Mọi thứ đều có cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Cuộc sống hiện ra trong hình ảnh của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế.

Câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “và này đây”, như thể một người vẫn còn chưa thoả, chưa muốn dừng lại. Đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm” mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những vật thể không hữu hình. Không chỉ sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao, cách mà Xuân Diệu gieo vào lòng người còn là những thứ mà con người cần phải quý trọng. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người. Đó chính là vẻ đẹp của “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Nhưng có lẽ nét độc đáo của 13 câu thơ chính là 2 câu thơ mang tính so sánh cao

Advertisement

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Hình ảnh so sánh thật thú vị và đầy bất ngờ, thời gian đẹp nhất của mùa xuân lại được coi như một cặp môi gần, vừa mang đến sự đam mê, sự lôi cuốn mà còn là sự say đi.

Dưới con mắt của kẻ si tình, mùa xuân hiện ra thật đẹp, thật gợi cảm. Nó còn được tác giả đi liền với từ “ngon” mặc dù không ăn được, không chạm được nhưng lại “ngon”. Mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người, thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong cảm xúc của một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hoàn toàn chiếm hữu.

Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Chính vì thế tác giả mới thốt lên nhưng lại chùng xuống và có vẻ tiếc nuối:

Và rồi ở những câu tiếp theo, tác giả nêu ra tại sao lại sung sướng nhưng lại vội vàng:

Cái mới của bài thơ và cả quan niệm của Xuân Diệu trong bài thơ được thấy rõ và phát hiện. Tưởng chừng nó giống như một quy luật bình thường ai cũng biết nhưng đặt trong trường hợp này, nó lại là cả một quá trình chiêm nghiệm và nhận thức. Tác giả đã để hai vế tưởng như trái ngược nhau lại trở thành ngang hàng: “đang tới” đối với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Đây là cách nói đầy ấn tượng tạo nên sự trôi mau gấp rút vô cùng của thời gian. Điều này càng có ý nghĩa với một người mà sự sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba, vừa có cảm giác sợ hãi, lại tiếc nuối nhưng cũng có cảm giác như hối thúc phải sống sao cho không phí hoài tuổi trẻ, bởi xuân hết thì tôi cũng không còn nữa..

Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Bằng những nét vẽ vô cùng sống động, độc đáo, Xuân Diệu đã tái hiện lại khung cảnh hết sức lãng mạn, một thiên đường dưới mặt đất. Dưới con mắt tinh tế, nhạy cảm của nhà thơ cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống ấy cũng thật ngắn ngủi nên phải sống vội vàng để tận hưởng hết niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Qua đây tác giả cũng thể hiện và gửi gắm tư tưởng lạc quan yêu đời mà tác giả đã tạo ra cho thế hệ trẻ, cần phải sống, đam mê hết mình để cống hiến cho tuổi trẻ.

Đến với Xuân Diệu – nhà thơ có cội nguồn hòa hợp giữa vùng gió Lào cát trắng cùng với sự cần cù của xứ Nghệ.

Cả đời Xuân Diệu là cả đời lao động nghệ thuật không lúc nào ngừng bút. Đối với ông sự sống không bao giờ chán nản. Là con người xứ Nghệ cần cù, kiên nhẫn, lao động và sáng tạo nghệ thuật. Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong nền văn học hiện tại. “Vội vàng” là một trong những tác phẩm thơ xuất xắc của ông. Bài thơ cũng là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình. Hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, thể hiện khát vọng sống của tác giả. Đến với 13 câu thơ đầu chúng ta sẽ thấy rõ được sự táo bạo và đầy lãng mạn của nhà thơ. Bởi vậy, ông được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình.”

“Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc của tác giả. Ngay từ đầu ta bắt gặp một thái độ sống:

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên, một ước muốn không thể, vô cùng táo bạo. Tôi muốn “tắt nắng”, “buộc gió” là những điều vô cùng kì dị, mà vô cùng độc đáo mà chỉ có mình Xuân Diệu mới nghĩ ra. Xuân Diệu muốn tắt nắng, muốn buộc gió để giữ lại những cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương, của cả thời gian. Tác giả chỉ muốn giữ lại thời gian cho riêng mình, để nhà thơ có thể ngắm nhìn và tận hưởng những điều đấy. Nhà thơ đã đẩy cái tôi chủ quan của mình để làm thay đổi được quy luật của tự nhiên. Muốn níu giữ thời gian để ngưng động cái không gian, ý tưởng đó táo bạo nhưng vô cùng lãng mạn. Điệp ngữ “tôi muốn” làm nổi bật cái khát vọng mãnh liệt của cuộc sống bởi thiên nhiên mùa xuân đầy tươi đẹp và đầy sức sống.

Cả không gian như được tô điểm một màu xanh non tươi mơn mởn, màu xanh của đồng nội, màu xanh của lá non, màu xanh của cành to phấp phới, kết hợp hài hòa làm cho bức tranh thiên nhiên dạt dào sức sống, sinh động, có hồn và trở nên tươi mới hơn nhờ vào tiếng hót của loài chim yến anh.

Tiếng chim cất lên tưng bừng rộn rã tạo nên một khúc nhạc tình si trong không gian tràn ngập ánh sáng. Mùa xuân tưng bừng, mùa xuân rộn rã đã dần đến cho nhà thơ một niềm vui, niềm ham muốn nắm bắt và muốn hưởng thụ mỗi sáng.

Cảm nhận của nhà thơ cũng thật độc đáo khi đến với con người. Xưa nay người ta chỉ nói mùa xuân đẹp, mùa xuân tươi và tràn đầy sức sống nhưng chưa ai nói “mùa xuân ngon”. Nhà thơ Xuân Diệu, với ông mùa xuân không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà tác giả còn sử dụng biện pháp so sánh để so sánh thật cụ thể “cặp môi gần”. Điều đó thể hiện sự nồng nàn trần thế của con người. Những cặp môi gần ấy, nó đánh dấu vào thời gian, xuân đã trở thành một quả nhân mà người nghị sĩ là tình nhân. Chính ý nghĩ đó đã trẻ hóa thế giới già nua, cũ kĩ, làm cho nó trở nên thật mới mẻ. Bức tranh thi sĩ vẽ ra như một thiên đường đầy mật ngọt, nó không tồn tại, không xa rời, không mờ ảo mà nó hiển hiện với hơi thở với nhịp điệu sống ngay giữa cuộc đời trần thế để cho con người mở lòng mình ra mà tận hưởng.

Với Xuân Diệu cái gì cũng mới lạ và bằng cặp mắt xanh non của ông của cái tôi cá nhân, Xuân Diệu đã phát hiện ra thế giới này đẹp nhất vẫn là vì có con người. Cuộc đời đẹp nhất là vào lúc tuổi xuân. Và con người chỉ tận hưởng được điều ấy lúc còn trẻ. Song tuổi trẻ sẽ tàn phai theo thời gian vì thế mà ông phải sống vội vàng và gấp gáp.

Đến đây ta đã hiểu được vì sao mà thi sĩ muốn can dự vào những quy luật muôn đời của tạo hóa để không phải là một ước muốn ngông cuồng nông nổi. Mà là khát vọng cháy bỏng của thi nhân, ước muốn bất tử hóa của cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vị của cuộc sống.

Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đây chưa từng có. Đến với “Vội Vàng” Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng. Hãy tranh thủ lúc còn trẻ để được hưởng đầy đủ nhất. Ông không quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời của ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng tận hưởng. Đối với mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện nay không phải ai cũng biết sống có ước mơ, có hoài bão, đôi khi chỉ là sống để tồn tại, sống lạc loài. Đã sống là phải biết sống có mục đích, có ước mơ, hoài bão. Khi đó ta mới nhận ra cuộc sống này ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Vội vàng” thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong bức tranh mùa xuân rạng ngời, rung động lòng người. Với 13 câu đầu của bài thơ “Vội vàng” đã gợi cho người đọc một cảm xúc khó diễn tả.

Xuân Diệu đã cho người đọc thấy một khát vọng vô cùng mạnh liệt của cái “tôi” trong tâm hồn ông, được thể hiện 4 câu thơ đầu:

Nhà thơ sử dụng điệp từ “tôi muốn” nhằm bộc lộ niềm khao khát mãnh liệt của mình. Muốn tắt nắng để lưu giữ lại màu sắc tươi sáng của nắng; muốn buộc gió để lưu giữ lại những mùi hương phảng phất trong gió. Qua đó, cho thấy tác giả muốn níu giữ lại những sắc hương của cuộc đời. Niềm khát vọng mạnh mẽ ấy có phần ngông cuồng đến kỳ lạ khi ông muốn được nắm giữ quyền hành của tạo hóa. Để từ đó hiện ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt đẹp:

Bất cứ ai cũng phải ngỡ ngàng sững lại trước vẻ đẹp thơ mộng mùa xuân. Những câu thơ kéo dài khiến cho người đọc liên tưởng đến như một bức tranh xuân tuyệt đẹp, thơ mộng. Sử dụng linh hoạt điệp từ “này đây” cùng nhịp thơ rộn ràng góp phần phô trương vẻ đẹp muôn màu sắc xuân. Hình ảnh biểu tượng cho mùa xuân là ong bướm, hoa, lá,… Tất cả những biểu tượng đó đã tạo nên một bức tranh mùa xuân sống động, căng tràn sức sống khiến cho người đọc như được chìm trong một thế giới ngập tràn màu sắc. Nhà thơ đã vẽ lên một khung cảnh hết sức lãng mạn gợi ra tâm trạng của những người đang yêu. “Yến anh” là chim yến chim oanh đại diện cho tình cảm thắm thiết của tình yêu đôi lứa. “Khúc si tình” là âm hưởng say đắm trong tình yêu.

Mỗi buổi sáng mùa xuân luôn quyến rũ lạ thường, là lúc nữ thần mặt trời tỉnh giấc gửi những tia nắng lung linh trao niềm vui cho gia đình và tưới sự sống cho muôn loài. Đối với nhà thơ, mỗi ngày trôi qua đều vui vẻ sung sướng, nhưng cũng rất vội vàng bởi mỗi phút giây được sống đều rất quan trọng. Khi đang sung sướng thì ông lại nuối tiếc về tuổi xuân, đây là hai luồng cảm xúc đối lập với nhau.

Qua 13 câu thơ đầu, nhà thơ đã cho người đọc thấy một bức tranh mùa xuân thơ mộng, tươi đẹp, xao xuyến động lòng người. Qua đó, Xuân Diệu cũng thể hiện niềm nuối tiếc về thời gian trôi qua không ngừng và không chờ đợi một ai.

…………..

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến (Dàn Ý + 17 Mẫu) Phân Tích Đoạn 1 Tây Tiến

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Quang Dũng

– Giới thiệu bài thơ Tây Tiến

II. Thân bài:

– Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ

“Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.

“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.

– Hai câu thơ tiếp:

“Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.

Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.

Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.

– Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:

Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của người lính chiến khi hành quân.

“Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.

– Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:

Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.

Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.

– Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”

Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.

Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu.

III. Kết bài:

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng” với những tác phẩm nổi tiếng như: ” Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”…Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:

Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”. Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:

Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy “chơi vơi” kết hợp với hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như choán đầy cả không gian ” Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Câu thơ có bảy từ thì có hai từ “nhớ”. Điệp từ “nhớ” như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là ” Nhớ Tây Tiến”. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả trở thành kỉ niệm không thể nào quên. Không phải khi đến với “Tây Tiến” người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:

Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ “chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “Mai Châu”. Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn. Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:

Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày “lấp” cả đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ “mỏi” như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong ” sương lấp” thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói “hoa nở” mà “hoa về” không nói sương mà là “đêm hơi” như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành. Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:

Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.

Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ tiếp theo như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy thung lũng thành ‘xa khơi”. Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì lạ, phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:

Quang Dũng nhớ đến âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.

Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua. Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm. Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh “súng ngửi trời” tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người đọc đến với câu thơ của Tố Hữu:

Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:

Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc chiến . Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những người ngã xuống vì kiệt sức. vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã thể hiện cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa ,vừa ngạo nghễ “không bước nữa” để rồi “bỏ quên đời” như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.

Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ , có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp dừng lại một bản làng-Mai Châu

“Nhớ ôi”là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.Nhớ mùi thơm “nếp xôi” hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến . Như Chế Lan Viên từng viết về tình quân dân ấy trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”

Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi trán. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.

Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ “Tây Tiến” dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản tình ca về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Đồng thời thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.

“Tây Tiến” của Quang Dũng có thể coi là một trong những bông hoa tươi thắm nhất của chùm hoa thơ viết về anh bộ đội cụ Hồ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ngay từ khi ra đời đã tạo một sức sống hết sức mạnh mẽ và bền bỉ trong lòng người đọc. Sức sống ấy có được là nhờ ngòi bút của Quang Dũng đã từ những cảm hứng vừa hiện thực, vừa bay bổng lãng mạn khi khắc họa hình tượng người chiến sĩ vệ quốc như một khúc ca bi tráng vang lên giữa một bản đại hùng ca của toàn dân tộc trong những tháng năm bảo vệ đất nước mình. Hình tượng người lính với sự hòa trộn các sắc màu vừa hiện thực vừa lãng mạn đã được hiện ra ngay từ phần thứ nhất của bài thơ, phần mô tả vẻ đẹp của người lính gắn liền với những chặng đường hành quân của họ. Thiên nhiên và con người đan xen hoà quyện lẫn nhau để tạo nên sự hoành tráng của bức tranh cuộc sống, sự kỳ vĩ lớn lao của con người.

“Tây Tiến”, nói đúng ra là những hoài niệm đầy nhớ thương và tự hào của Quang Dũng về những người đồng đội của mình trong đoàn binh Tây Tiến, đoàn binh có nhiệm vụ từ Hà Nội, Hà Tây tiến thẳng lên Tây Bắc giải phóng vùng biên giới Việt-Lào rồi giúp nước bạn giải phóng vùng thượng Lào, tạo nên một vùng an toàn cho chiến khu của chúng ta; về những tháng năm vô cùng gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của đoàn binh Tây Tiến gắn liền với những vùng đất mà họ đã đi qua, đã chiến đấu, và chiến thắng. Sau những bước chân trường chinh, Tây Tiến, đoàn binh đã được phiên chế thành những đơn vị khác. Vì thế bài thơ lúc đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau QD mới đổi thành “Tây Tiến”.

Bài thơ, như những dòng ghi chú cuối cùng, được làm tại Phù Lưu Chanh, một làng ven bờ sông Đáy. Phải chăng vì thế mà nỗi nhớ Tây Tiến lại được bắt đầu bằng nỗi nhớ về một dòng sông với âm hưởng vô cùng tha thiết

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”

Đó là âm hưởng ngân lên từ những chữ “xa rồi” và chữ “ơi” đầy cảm xúc nhớ thương. Nhà thơ như để tiếng gọi yêu thương “Tây Tiến ơi” vọng về với một thời gian khổ nhưng nghĩa tình, đầy những hy sinh nhưng cũng đầy những gắn bó, vọng về một miền đất xa xôi, vọng tới những người đồng đội của mình dù nằm lại nơi viễn xứ hay đang chiến đấu ở những chiến trường khác nhau. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”, thấm đượm biết bao nỗi nhớ, niềm yêu thương của Quang Dũng.

Hình tượng con sông Mã mở đầu cho hoài niệm về Tây Tiến như một sự khẳng định âm hưởng hào hùng, bi tráng của những “tháng năm Tây Tiến” đã không thể phai mờ trong tâm trí không chỉ mỗi người lính Tây Tiến mà của cả dân tộc, của cả đất nước. Con sông Mã đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh, cho vẻ đẹp của đoàn binh Tây Tiến. Và Quang Dũng đã để con sông Mã ấy xa dần, xa dần nhưng vẫn chảy suốt bài thơ để khi thì hiện lên thành những con thác chiều chiều oai linh gầm thét, khi lại thành dòng nước lũ với con thuyền độc mộc, với “hoa đong đưa” và cuối cùng là hiện ra một cách đầy đủ trong khúc ca bi tráng của nó khi “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Và phải chăng con sông Mã ấy cũng chính là dòng sông cảm xúc mà Quang Dũng đã từ nó thể hiện bao nhiêu tự hào, cảm phục, nhớ thương đối với những người đồng đội của mình.

14 dòng thơ mở đầu là sự khắc tạc hình ảnh người lính Tây Tiến gắn liền với chặng đường hành quân gian khổ của họ. Vì thế thiên nhiên được mô tả cũng gắn liền với những chặng đường hành quân này. Thiên nhiên và con người như đan xen, như hoà quyện lẫn nhau. Dừng lại những chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, 14 dòng thơ như những thước phim tư liệu nhưng lại đầy giá trị nghệ thuật về cuộc sống, cuộc chiến đấu của người lính Tây Tiến.

Trước hết phải thấy Quang Dũng đã tạo nên trong Tây Tiến một thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa bí hiểm, vừa thơ mộng vừa khắc nghiệt như một cái nền làm nổi bật hình tượng người lính. Cho nên sau câu thơ như một tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi TT ơi !” là hình ảnh của một vùng rừng núi bao la như chao nghiêng trong ống kính của người nghệ sĩ quay phim, như chơi vơi trong nỗi nhớ của Quang Dũng. “Nỗi nhớ chơi vơi” là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ, bởi chơi vơi thường mang ý nghĩa chỉ không gian. Không gian tồn tại của sự vật, đi vào nỗi nhớ của Quang Dũng “chơi vơi” trở thành không gian của tâm tưởng, của cảm xúc. Từ bức tranh toàn cảnh “chơi vơi” một nỗi nhớ này, hoài niệm như ống kính quay phim làm hiện lên những chặng đường đã qua của đoàn binh Tây Tiến với những địa danh, không phải không có sự lựa chọn một cách kỳ công, gợi biết bao cảm giác về sự xa xôi hiểm trở như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu…Những địa danh với người đọc thuở ấy còn đầy bí hiểm, hoang sơ, thậm chí nó từng khiến Vũ Quần Phương cho rằng 2 chữ “Mường Hịch” nghe như bước chân cọp dậm dịch rình người, còn 2 chữ “Mai Châu” tự nó đã ủ sẵn hương thơm của nếp rừng. Mới biết sức gợi tả của các địa danh thôi cũng đã có thể làm lay động trí tưởng tượng của người đọc.

Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến của Quang Dũng còn vô cùng đặc sắc bởi nó được tạo nên từ một thứ ngôn ngữ rất giàu tính tạo hình. Mô tả thiên nhiên mà ta như thấy những bước chân quả cảm của đoàn binh Tây Tiến đang đạp bằng mọi gian khổ mà thiên nhiên thử thách, mọi hiểm trở mà thiên nhiên đe dọa. Ta không chỉ thấy một Sài Khao sương lấp, một Mường Lát hoa về trong đêm hơi mà còn thấy cả những chặng đường khúc khuỷu, cheo leo

Đó là hình ảnh trập trùng dốc đứng đèo cao như dựng lên trước mắt đoàn binh Tây Tiến. Những thanh trắc tiếp nối nhau tạo cảm giác về sự gập ghềnh khúc khuỷu. Điệp từ “dốc” như mở ra trước mắt người đọc hình ảnh những con dốc tiếp nối nhau lên tới người. Nhịp của câu thơ càng làm tăng thêm nỗi vất vả của người lính bởi nó như tiếng thở hối hả, giục giã, gấp gáp. Đó là nhịp điệu:

Dốc lên / khúc khuỷu / dốc / thăm thẳm

Đó là một nhịp điệu ít thấy trong câu thơ 7 chữ cổ điển: 2/2/1/2. Hơn nữa nhà thơ còn sử dụng liên tiếp những từ láy gợi hình, những từ láy mà tự nó đã có giá trị biểu hiện như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, tiếp đó là “heo hút”.

Tuy nhiên cần phải thấy thơ Quang Dũng có một đặc điểm rất nổi bật, bao trùm, đó là những hình ảnh tương phản có giá trị nâng đỡ lẫn nhau về mặt cảm xúc. Cho nên những “dốc lên”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đã trở thành vô nghĩa trong sự thử thách của thiên nhiên đối với con người. Vì sau tất cả những thử thách ấy, ta bỗng bắt gặp một cảm xúc đầy kiêu hãnh của người lính. Người lính đã bất chấp mọi thử thách để vươn tới một tầm cao +++g lộng giữa đỉnh trời. Quang Dũng đã tạo nên một hình ảnh hết sức bất ngờ từ sự tương phản này, hình ảnh “súng ngửi trời”. Từ hình ảnh ấy, người lính hiện ra rất thực, thực với những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức Hà Nội. Đó là hình ảnh được hiện ra từ cái nhìn của những người lính trẻ thông minh mà tinh nghịch, những người lính đã vượt qua muôn trùng dốc để vươn tới tận trời, để súng ngửi trời. Không phải là những người lính như người lính trong đoàn binh Tây Tiến khó có thể liên tưởng từ “mũi súng” đến “súng ngửi trời”

Thời đại đã đem đến cho Quang Dũng không chỉ một liên tưởng lạ lùng, kỳ thú mà còn là hình tượng thơ hết sức kỳ vĩ. Khẩu súng cùng với người lính như đang đứng ở đỉnh cao của thời đại gợi ta nhớ tới hình ảnh người chiến sĩ vệ quốc trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão:

“Hoành sóc giang san cáp kỉ thu”

Hình tượng người anh hùng vệ quốc cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sông hoặc người lính trong câu thơ của Tố Hữu.

(Lên Tây Bắc)

Song ở câu thơ của Quang Dũng, người lính thật hồn nhiên và lãng mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa giàu ý nghĩa tượng trưng. Thiên nhiên có lúc vụt hiện ra từ những câu thơ giàu giá trị tượng hình, một đỉnh cao nghìn thước. Đó là câu thơ:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Không ít người yêu thích câu thơ này bởi sự ngắt nhịp giữa dòng đã bẻ gập câu thơ , tạo nên cái đỉnh cao nghìn thước kia. Nhưng thực ra, cái độ cao nghìn thước ấy được tạo nên từ chính cấu trúc ngữ nghĩa của câu thơ. Nhà thơ đã tạo nên cái tương phản giữa nghìn thước lên và nghìn thước xuống để đứng giữa câu thơ là cái ngất trời của một chữ “cao”. Chính cấu trúc ngữ nghĩa ấy đã tạo nên đỉnh cao nghìn thước giữa câu thơ. Chẳng những thế, câu thơ với chữ “lên”, “xuống” còn gợi ra hình ảnh trập trùng của đoàn binh Tây Tiến đang vượt dốc cao vực thẳm. Mô tả thiên nhiên, Quang Dũng chỉ nhấn mạnh sự dữ dội hiểm trở của nó mà còn gợi ra hình ảnh hết sức thơ mộng. Bên cạnh cái hiểm trở của đỉnh cao nghìn thước, của con thác gầm thét, của Mường Hịch cọp trêu người còn có khung cảnh của Lũng Sa

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Một câu thơ toàn thanh bằng gợi nên cái mênh mông xa vời, chơi vơi. Sự tương phản về thanh điệu tự nó cũng đã gợi ra cái trập trùng của núi non nhưng đặc sắc hơn còn là chất lãng mạn gợi ra từ một khung cảnh thiên nhiên như vậy. Phải là người lính đầy chất thơ trong tâm hồn mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy sau khi đã vượt dốc, qua cồn mây, đạp bằng đỉnh cao nghìn thước.

Nói đến thiên nhiên trong Tây Tiến, không thể không nói tới một thiên nhiên hùng vĩ như một cái nền làm nổi bật tầm vóc của con người ở những câu thơ này. Quang Dũng đã mô tả thiên nhiên để mô tả con người. Quang Dũng đã mô tả thiên nhiên bằng cả hình, cả âm, cả nhịp điệu và đặc biệt là bằng cảm hứng lãng mạn để sự hiểm trở của thiên nhiên chỉ càng khơi gợi cảm hứng chinh phục của con người. Đó là cảm hứng không phải không có sự ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn như “Nhớ rừng” của Thế Lữ, sự ảnh hưởng từ câu thơ:

Đến câu thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét”

Cảm hứng lãng mạn ở Tây Tiến còn là sự ảnh hưởng từ hồn thơ lãng mạn của Lý Bạch bởi những câu thơ “Dốc lên … ngửi trời” đã gợi ta nhớ đến “Thục Đạo Nan” của Lý Bạch

Đọc câu thơ:

“Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Ta lại nhớ đến “Thục đạo nan” với câu thơ:

“Triêu tỵ trường xà – Tịch tỵ mãnh hổ”

Con đường Tây Tiến có khác gì con đường vào “Thục” xưa trong câu thơ của Lý Bạch. Chính Quang Dũng cũng nói về sự ảnh hưởng này trong các câu thơ của ông.

Với 14 dòng thơ mở đầu, tuy hình ảnh người lính chỉ thấp thoáng ẩn hiện giữa thiên nhiên qua ống kính quay cận cảnh của Quang Dũng nhưng đoạn thơ vẫn khắc họa những vẻ đẹp hết sức đặc sắc từ ý chí, nghị lực đến khí phách, tâm hồn của đoàn binh Tây Tiến. Hình tượng người lính ở đây cũng mang màu sắc được hoà trộn từ cảm hứng hiện thực cho đến cảm hứng lãng mạn, một sự hòa trộn mang tính đặc trưng của thơ Quang Dũng. Hiện thực và lãng mạn luôn nâng đỡ lẫn nhau trong các câu thơ trong từng hình ảnh.

Đó là hình ảnh người lính hiện ra như một đoàn quân mỏi nhưng cũng lại là người lính tâm hồn tràn đầy chất thơ nên giữa bao nhiêu mỏi mệt vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng, vẻ đẹp của một “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Người lính như thả hồn vào cõi mộng của đêm hơi giữa núi rừng, tận hưởng hương thơm của hoa rừng. Nếu cảm nhận câu thơ ” Mường Lát hoa về trong đêm hơi” như một sự cách điệu hình ảnh đoàn binh Tây Tiến với những bó đuốc trên tay, hành quân qua Mường Lát như một ai đó đã nói thì sẽ không thể hiểu được ý tưởng của nhà thơ muốn làm nổi bật cái tinh tế, cái thi vị- chất thơ như một vẻ đẹp trong tâm hồn người lính.

Đó còn là hình ảnh những người lính vượt muôn trùng dốc với bao nhiêu vất vả bởi những “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” nhưng đột nhiên lại xuất hiện ở tầm cao đỉnh trời trong tiếng cười lạc quan với chi tiết “súng ngửi trời”. Ta như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi mệt nhọc gian nan, rũ sạch cả bụi trường chinh trên tấm áo người chiến sĩ. Quả thực như đã nói, cho đến “Tây Tiến”, chưa ở đâu trong văn học nước ta, người lính vệ quốc, anh bộ đội cụ Hồ được đặt ở một tầm cao như vậy. Đó là hình ảnh người lính vượt những đỉnh cao nghìn thước không chỉ là đỉnh cao của thiên nhiên mà còn là đỉnh cao của những khó khăn, thử thách nhưng tâm hồn vẫn thảnh thơi, vẫn mơ mộng khi để lòng trải ra mênh mông giữa khung cảnh

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Đó còn là hình ảnh về sự hy sinh lặng lẽ mà rất anh hùng của những người lính Tây Tiến dọc theo chặng đường hành quân. Thương nhớ vô cùng trong 2 chữ “anh bạn” mà nhà thơ đã nói về đồng đội của mình bởi đó là những người bạn đã nằm lại dọc đường hành quân. Nhưng Quang Dũng không biến nỗi đau ấy thành sự bi luỵ khi nhà thơ viết về sự hy sinh của những người bạn như viết về giấc ngủ của họ. “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, nhưng tinh thần của họ lại vút lên cùng sông núi . Họ coi cái chết nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ nhưng sông núi lại để niềm nhớ thương và kiêu hãnh hoá thân thành những ngọn thác để chiều chiều oai linh gầm thét, vừa thể hiện nỗi đau xé lòng lại vừa thể hiện khúc tráng ca muôn đời của sông núi hát về sự hy sinh của họ.

Thủ pháp tương phản được sử dụng một cách triệt để để làm vút lên vẻ đẹp tâm hồn hết sức hào hoa của người lính, để dựng lên hình ảnh những người lính dẫu sống giữa một vùng đất hoang sơ đầy bí hiểm, nơi cọp còn trêu người, nhưng tâm hồn họ vẫn ngời lên một vẻ đẹp phong nhã, hào hoa trong câu thơ:

Bao nhiêu lãng mạn gửi vào những chữ “nhớ ôi Tây Tiến…”, “Mai Châu mùa em …”. Đó là những chữ đã để lại trong tâm hồn người lính những vẻ đẹp của miền núi hoang sơ kia, vẻ đẹp mang đậm tình người với “cơm lên khói” và “mùa em thơm nếp xôi”. Lòng người Tây Tiến nhớ mãi “mùa em”, mùa những người lính Tây Tiến gặp em giữa khung cảnh hạnh phúc của xóm làng. Hương nếp xôi cũng từ mùa em mà thơm mãi trong tâm hồn người lính.

Dẫu 14 dòng thơ mở đầu chủ yếu là khắc tạc bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hiểm trở thì cũng phải thấy Quang Dũng muốn từ thiên nhiên ấy mà làm nổi bật hình ảnh những người lính Tây Tiến với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới. Đây là câu thơ có sức tạo hình hết sức độc đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính trở nên rực rỡ. Hình tượng nghệ thuật vừa bám sát hiện thực lại có sự bay bổng trong sức tưởng tượng của người đọc bởi chất lãng mạn ấy của hồn thơ Quang Dũng.

Quang Dũng là một nhà thơ lãng mạn và tài ba, ông để lại rất nhiều tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam, trong đó có Tây Tiến. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948 với cảm hứng chủ đạo là nỗi nhớ đồng đội thân yêu, nhó binh đoàn Tây Tiến, nhớ cả bản mường và núi rừng Tây Bắc, những kỷ niệm một thời trận mạc đầy gian khó hiểm nguy… Bài thơ cũng ghi lại hào khí lãng mạn của những người trẻ Việt Nam, luôn sẵn sàng chiến đấu vì độc lập tự do dân tộc.

Hai câu thơ đầu tác giả nói lên nỗi nhớ, nhớ đoàn quân Tây Tiến, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

Hai tiếng “xa rồi” gợi nỗi nhớ nhớ da diết đến quặn lòng, không thế nào nguôi được, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên sao tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ nhưng cũng đầy hào hùng hiện về trong tâm tưởng.

Hai câu thơ tiếp theo nói lên chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải:

Giữa những dãy sương mù dày đặc, giữa đêm gió rừng gào thét, dù biết bao mệt mỏi vất vả thì đoàn quân vẫn miệt mài đi qua. Chút lãng mạn, nét đẹp thư sinh vẫn còn đó khi giữa đêm thâu nhận ra được hương hoa rừng lan tỏa. Bên cạnh bên tiếng pháo, tiếng bom, mùi súng đạn tàn khốc ngày đêm vang vọng, món quà nhỏ bé từ thiên nhiên ấy đã được các anh đón nhận thật chân thành nơi dải đất “Mường Lát” phảng phất hương thơm.

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” được tác giả sử dụng hết sức tài tình, đặc tả được những gian khổ, gian truân trên nẻo đường hành quân chiến đấu của binh đoàn Tây Tiến. Đứng trên đỉnh núi mù sương, mũi súng của các chiến sĩ như chạm vào trời. Đây cũng là hình ảnh dược nhân hóa giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn, thi vị. Đồng thời nó cũng khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ.

Hai câu thơ sau tiếp tục khơi gợi những gian khổ, sự nguy hiểm tiềm ẩn trên con đường hành quân.

Không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu. “Chiều chiều” rồi tới “đêm đêm” luôn có biết bao nhiêu nguy hiểm rình rập, có thể lấy đi mạng sống của các chiến sĩ bất cứ lúc nào. Nhưng không vì thế mà đoàn quân Tây Tiến chùn bước, Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây Bắc để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của những người chiến sĩ bộ đội, để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước.

Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội 2 câu thơ:

Chiến tranh luôn có những hậu quả nặng nề, sự hy sinh của người lính là điều tất yếu, xương máu đổ xuống để mang về tự do độc lập cho đồng bào. Vần thơ nói lên sự mất mát, hy sinh nhưng lại không hề tham thương, bi lụy. Thể hiện sự anh dũng, hào hùng và tinh thần chiến đấu quật cường của những người lính bộ đội cụ Hồ.

Kết thúc khổ 1 bài thơ Tây Tiến, tác giả Quang Dũng đã thành công khắc họa hình ảnh người chiến sĩ can trường và lạc quan, luôn sẵn sàng hy sinh bản thân để đổi lấy tự do dân tộc. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp về thơ ca chiến sĩ. Bằng nét bút tài hoa, nghệ thuật dùng từ tài tình, trải qua bao nhiêu thế hệ bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẫn giữ nguyên được giá trị của mình.

Đó là nỗi nhớ thương Hoàng Cầm gửi lại mảnh đất của mình của bài thơ “Bên kia sông Đuống’, là nỗi nhớ thương của những kẻ đi xa qua bài thơ “Bếp lửa” – Bằng Việt, đôi khi là nỗi nhớ của lứa đôi chỉ dám gửi qua “hương bưởi” trong bài thơ “Hương thầm” – Phan Thị Thanh Nhàn. Mỗi nghệ sĩ đều đặt trái tim nơi ngòi bút để viết về nỗi nhớ niềm thương nhiều như vậy. Quang Dũng – người nghệ sĩ đa tình cũng rất mực đa tài cũng để trái tim viết về những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ nổi bật với 14 câu thơ đầu- những ký ức của binh đoàn trong những chặng đường hành quân gian khổ.

Quang Dũng không chỉ làm thơ mà còn viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Thơ của Quang Dũng luôn lột tả một chất thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa. “Tây Tiến” là thi phẩm viết vào năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Vào năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến và từng giữ chức vụ đại đội trưởng rồi sau đó chuyển đơn vị. Khi những niềm thương nỗi nhớ rủ nhau về bầu bạn, Quang Dũng không thể ngăn nổi lòng mình mà viết lên bài thơ này – Bài thơ được coi là khúc độc hành của nỗi nhớ thương.

Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời chiến binh bằng tiếng gọi đầy thân thương:

Tất cả cảm xúc đồng hiện lên trong nỗi nhớ “chơi vơi” soi tràn đến từng câu chữ. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà cũng rất thơ mộng bỗng trở thành tiếng gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người đồng đội. Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang âm điệu của núi rừng, của địa bàn hoạt động cũng đã xa rồi, chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Có thể thấy từ “xa rồi” chính là điểm rơi thấp nhất của câu thơ này, nó giống như khoảng hụt hẫng khi những kỷ niệm chỉ giống như những thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm xúc đong đầy. Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, giữa khoảng không gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu nên tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi vơi”. Ký ức thật lung linh huyền diệu!

Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha mạch chảy dòng hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả, lay động và xôn xao trong lòng. Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là không gian địa lý nay trở thành mốc thời gian lịch sử. Hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy sự khắc nghiệt của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Cảnh thực chợt nhòa đi bơi hoa, bởi sương, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Không gian được liên tưởng tới là Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại được tiếp thêm sức mạnh. Nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

Thiên nhiên như mừng vui, như chờ đợi những chiến công của người lính ra trận. Còn trong thơ Quang Dũng, thiên nhiên hiện ra lại đầy trái ngược:

Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Những con dốc là hình ảnh đầu tiên được đề cập tới được miêu tả bằng từ láy tượng hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng tới địa hình gấp gãy. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai miêu tả độ cao của những ngọn núi:

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với những khoảnh khắc tinh nghịch, dí dỏm, đậm chất lính. Bước chân đi tưởng như đang đi giữa biển mây. Nó khiến ta liên tưởng tới ý hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”. Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm tới trời. Dường như ta cũng từng bắt gặp liên tưởng ấy trong thơ của Chính Hữu: “Đầu súng trăng treo”

Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Gian lao vẫn vượt qua, khó khăn càng khích lệ họ đi tới để chinh phục.. Câu thơ sử dụng các cặp từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây khiến người đọc tưởng như đang chơi trò bập bênh chóng mặt. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ đe dọa bởi địa hình hiểm trở, ta vẫn thấy bình yên trong sự sống trên những nếp nhà:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những nếp nhà nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau chặng đường hành quân vất vả.

Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính dẫn chặng đường hành quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã, Quang Dũng không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy:

Nhà thơ nói về “anh bạn” là nói về những đồng chí, đồng đội của mình thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ “gục” có phần nặng nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình ảnh “bỏ quên đời”. Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản. Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên và con người tạo nên sự đối chiếu thầm lặng để tôn vinh sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi phía, mọi nơi

Giữa những gập ghềnh, gập gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị đe dọa bởi thác dữ, thú rừng:

“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian luôn tuần hoàn như sự đe dọa bủa vây từ mọi phía, người lính trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:

Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về để rồi luôn nhung nhớ những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi. Trong “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:

Quang Dũng đã lựa chọn địa danh có tên nghe thật êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu” nếu như không lựa chọn địa danh này mà thay nó bằng “Lai Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần. Ở đây, “mùa em” đó là mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, mùa ta gặp nhau mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên.

Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã kể lại chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa. Cái hay của nhà thơ này là bên cạnh những nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng trai Hà Nội.

Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm về “đoàn binh không mọc tóc” và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem vào trận chiến. Xin được mượn lời thơ của Giang Nam để thay lời kết cho bài viết này, có lẽ Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết bao người yêu mến nhà thơ Quang Dũng và bài thơ “Tây Tiến”:

Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Là người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tám câu thơ đầu tiên là tiếng lòng bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”

Câu thơ đầu như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là con sông mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui – buồn, được – mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự:

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Câu thơ thứ hai với điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như cơn thác lũ tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.

Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành kí ức khó phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót” bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở.

“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên điều gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.

Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất họa và đậm chất thơ. Bài thơ là một khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế, Xuân Diệu thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ “Tây Tiến” như đang ngậm âm nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn và của một người lính Tây Tiến nên nó tạo nên một điều gì đó rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.

“Tây Tiến” là 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn , tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.

Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, bài thơ là những hồi tưởng của ông về thời kì huy hoàng của binh đoàn. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về ngày xưa cũ:

Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn Tây Tiến hoạt động, chiến đấu nay đã trôi xa chỉ còn lại kí ức và nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy được khắc họa bằng từ láy “chơi vơi”. Đó là nỗi nhớ lênh đênh, vô định nhưng luôn thường trực trong lòng người chiến sĩ. Không chỉ nhớ những người đồng chí, đồng đội, anh còn nhớ cả rừng núi, nhiên nhiên, những nơi mình đã đặt chân qua. Tất cả luôn thường trực trong kí ức, da diết, ngân vang bao trùm cả không gian và thời gian.

“Sài Khao” là nơi đoàn quân mỏi mòn trong lớp sương mờ dày đặc để đi đến chiến trường; “Mường Lát” gắn với những đêm ẩm ướt đọng đầy hơi nước và hương hoa. Đó là những địa danh mà binh đoàn đi gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ, không gian tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng vô cùng thơ mộng, trữ tình.

Từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở của thiên nhiên. Đường hành quân của người chiến sĩ không những dài mà còn gập ghềnh, khúc khuỷu, sâu hun hút chất chứa nhiều nguy hiểm. Bên cạnh đó, người lính còn phải vượt qua những ngọn núi cao, dốc sâu vắng lặng, hoang vu cảm giác mũi súng chạm đến tận trời xanh; cứ thế, lên cao lại xuống thấp vô cùng khó khăn, gian khổ.

Tuy nhiên, sau những gian khổ đó, người chiến sĩ lại nhận về phần thưởng xứng đáng đó là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của mình là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng hiếm nơi nào có được. Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp, sư phấn chấn đó cũng là những nỗi buồn sâu thẳm:

Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông xuôi. Và cả sự ra đi, hi sinh của những người đồng chí giống như anh em ruột thịt của mình càng làm cho người lính Tây Tiến đau xót. Cùng nhau chung sống, chiến đấu là thế nhưng lại có người ở người đi thử hỏi sao không khỏi buồn rầu? Nhưng không vì thế mà người chiến sĩ buông xuôi, mà đó là minh chứng cho tấm lòng dạt dào tình cảm yêu thương của họ.

Từ láy “chiều chiều, đêm đêm” gợi tần suất thường xuyên, liên tục của những gian khó. Người chiến sĩ luôn phải đối mặt với nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc bằng tiếng cọp, bằng thác dữ có thể cướp đi sinh mạng của họ bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, họ chọn cách đối mặt với chứng bằng sự dí dỏm, hài hước bằng cách coi như đó là những lời trêu đùa bên tai để cố gắng, vững tin chiến đấu.

Không chỉ nhớ về khó khăn, gian khổ, người lính Tây Tiến còn nhớ về những kỉ niệm cùng người dân ở vùng đất nơi mình đi qua:

Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi của và cả những cô gái nơi đây. Tất cả đều là những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ, đáng yêu, đáng trân quý.

Đoạn thơ không chỉ khắc họa thành công vẻ đẹp hào hoa, bi tráng của người lính Tây Tiến mà còn mang đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về những con người này. Bằng thể thơ tự do, những miêu tả sáng tạo, thú vị, giọng điệu hài hước, vui tươi, nhà thơ đã làm nên một tác phẩm giàu ý nghĩa và đậm tính nhân văn.

Tây Tiến đã mang đến một màu sắc khác lạ góp phần làm phong phú kho tàng thơ văn Việt Nam. Nhiều năm tháng qua đi những tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

Quang Dũng là nhà thơ lãng mạn, tài hoa. Bài thơ Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho sáng tác của Quang Dũng. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.

Tây Tiến là tên gọi của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa xôi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.

Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua.

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh , dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát, của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.

Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” luôn có những tiếng gầm thét, những âm thanh ấy khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:

Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi lụy, thảm thương.

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết, như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình, như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:

“Nhớ ôi!” là tình cảm dạt dào, là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản Mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, có hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài Tiếng hát con tàu.

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng” với những tác phẩm nổi tiếng như: “ Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”…Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:

Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:

Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đẩy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm. cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật chính xác sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đồi Tây Bắc. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao tưởng chừng như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mây núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.

Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa – những chi tiết thường gặp trong thơ cổ – nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác họa bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ở trong không gian rừng núi mà còn mở ra một không gian – tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà – ngút ngát chí tang bồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chút hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt – song chất hào hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ…

Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:

Vậy là, cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,….Những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giàu trí tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc.

Đoạn thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:

Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên khuôn mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lại. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tư thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.

“Tây Tiến” là một bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn , tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.

Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam, đặc biệt là của những năm đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, vì nền hòa bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Hà Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng tái hiện một các xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu và rất mực tài hoa lãng mạng. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm của người lính chiến, cũng chính là bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.

Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa là nhạc sĩ, vừa là họa sĩ chính vì thế thơ ông rất giàu chất nhạc và chất họa. Quang Dũng còn là một người lính ưu tú, tham gia nhiều chiến trường khác nhau, nên những vần thơ của ông về người lính rất chân thật và sống động, với sức truyền cảm mạnh mẽ, phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là những thanh niên Hà thành, nhận nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt- Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Địa bàn hoạt động trải rộng suốt từ vùng Sơn La, Hòa Bình, đến Sầm Nứa (Lào), rồi vòng về vùng phía tây Thanh Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ. Tây Tiến sáng tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng ở binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một nhan đề hàm súc, cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.

Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội, được thể hiện trong 14 câu thơ đầu.

Hai câu thơ đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/”Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”, gợi lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời đã qua, về một vùng đất đã xa. Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết khắc khoải, Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà dường như nó đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng gọi tên “sông Mã” ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng là hiện thân tiêu biểu của vùng rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ là một địa danh trên bản đồ địa lý mà đã trở thành người bạn, người tri kỷ, là chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt cuộc trường chinh. Thế nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết là nhớ về binh đoàn Tây Tiến thân yêu, sau là về Tây Bắc với dòng sông Mã vương đầy kỷ niệm. Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh của rừng núi, đó là nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng! Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người lính chiến. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang khắc khoải trong tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại là một cách diễn tả nỗi nhớ rất riêng của Quang Dũng. Đó là cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh trong một nỗi hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.

Nếu như 2 câu thơ đầu là nỗi nhớ bao trùm thì ở 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ về Sài Khao, Mường Lát trong, “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, từ đó kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu,… Dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp chiều không gian, mỗi nơi mà nhà thơ từng bước chân đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều cảm thấy yêu thương gắn bó, trích lời Chế Lan Viên “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”. Có thể nói mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của nhà thơ không thể phai mờ, đó cũng là tình cảm thắm thiết sâu nặng, cũng trích lời Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát trong màn sương mờ mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên núi rừng, đồng thời là vẻ đẹp đông đảo, đoàn kết của người lính chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, dường như vẫn còn như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ nỗi nhớ sâu sắc của tác giả, bởi kỷ niệm càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ là càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến cả cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây có thể hiểu là ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác hơn, thì hoa ấy là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa trong những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa gợi lên nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…

Sau nỗi nhớ về Mường Lát về Sài Khao chính là kỷ niệm về những ngày hành quân chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở, nguy nan.

Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên là vách núi bên là vực thẳm, sự hun hút của cung đường. Cả câu thơ gợi mở một không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên có hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân của binh đoàn Tây Tiến, người lính đã hiện lên với tầm vóc là một đối thủ xứng tầm của thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi dường như chưa từng có bước chân người đến, chính vì người lính hành quân trên những ngọn núi cao chót vót, nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải núi rừng.

Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của Quang Dũng, vì người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi có thể chạm đến mây, thì những khẩu súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng trời xanh kia, nói là “súng ngửi trời” đó là cách cảm nhận thật tinh nghịch của người lính trẻ lãng mạn, hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có âm điệu thật khác so với ba câu thơ trên, lời thơ nhẹ nhàng trầm xuống, tưởng tượng như người lính chiến từ trên đỉnh núi cao mà phóng tầm mắt xuống, thấy những cảnh vật mơ hồ không sắc nét, nhưng đó là dấu hiệu của sự sống, “mưa xa khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của làn mưa trắng xóa. Đó là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng gợi lên trong tâm hồn người lính những cảm giác yên bình, về một chốn dừng chân, để tiếp thêm động lực cho những chặng đường trước mắt.

Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của một người lính Tây Tiến.

Các gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và “bỏ quên đời” đều là cách nói tránh về cái chết, điều đó là giảm đi sự đau thương mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm, trang bị gắn bó với đời lính, đó là một tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn xót xa của nhà thơ với người đồng đội đồng thời cũng là tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh, nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.

Tiếp đến là nỗi nhớ về một thời gian khổ và lãng mạn, điều ấy được thể hiện rõ ràng trong 4 dòng thơ sau:

Cấu trúc thơ tân kỳ độc đáo, dùng động từ mạnh mẽ trong câu “Chiều chiều oai linh thác gầm thét” thể hiện cái dữ dội, hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, không chỉ dừng lại ở sự hoang sơ hùng vĩ, mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những mối hung hiểm khôn lường, Quang Dũng viết “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, nơi rừng thiêng nước độc, lại còn có sự hiện diện của ác thú. Mãi chìm trong những ký ức nhưng nhà thơ bỗng sực tỉnh “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Tây Tiến đã xa, Tây Bắc cũng đã xa lắm rồi, chỉ còn lại kỷ niệm. Nỗi nhớ ở đây được bộc lộ một cách tha thiết, cồn cào, nhớ cả về những bát cơm, hương khói lửa, nắm xôi ấm tình quân dân, đồng thời cũng gợi lên một thời kháng chiến vừa vất vả vừa lãng mạn, thi vị nên thơ.

Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng. Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua với giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi, tất cả đã tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.

Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.

Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đột xuất mà vẫn là sự tiếp tục của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.

Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và thời gian mênh mông.

Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và nỗi nhớ ấy đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ diễn tả nỗi nhớ…nhưng “nhớ chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người đầu tiên mạnh dạn sử dụng. Nỗi nhớ ấy gợi xa về cả không gian, thời gian và tầm cao nữa, nỗi nhớ như có dáng hình bềnh bồng, bềnh bồng. Quang Dũng viết bài thơ này khi mới xa đoàn quân Tây Tiến, xa mà không hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm giác về thời gian trải dài tạo nên nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.

Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội tấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ, khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên với bao kỷ niệm chồng chất, ào ạt xô tới:

Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi nỗi nhớ chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và cái mệt mỏi của đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái gian khổ lại có một cái rất thơ, dường như huyền thoại:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Câu thơ rất độc đáo, hoa về chứ không phải hoa nở, đêm hơi chứ không phải là đêm sương. Hoa hiện ra mờ mờ trong sương, trong màn sương vẫn cảm thấy hoa. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh quá! Đọc đến đây, cái “mỏi” của đoàn quân dường như đã tan biến hết. Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là thanh bằng nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người, khác với:

Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường hành quân đầy gian khổ, khó khăn. Tác giả không viết súng chạm trời mà là “súng ngửi trời” rất sinh động, nghịch ngợm, thông minh, hóm hỉnh.

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa gợi hình ảnh dốc rất cao, rất dài nhưng ngay sau đó lại là một câu thơ toàn vần bằng. Xuân Diệu trước đây cũng chỉ viết được hai câu toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:

Còn Quang Dũng trong Tây Tiến đã có khá nhiều câu thơ hầu hết là vần bằng, chất tài hoa của ông bộc lộ ở đó.

Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Trong khổ thơ thứ nhất này từng mảng hình khối, đường nét, màu sắc chuyển đổi rất nhanh, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ như một bức tranh hoành tráng. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” không thể nói rõ mà chỉ cảm nhận bằng trực giác. Nếu “thơ là nơi biểu hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kỳ ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ này cũng đúng như vậy.

Thiên nhiên trong Tây Tiến cũng như trong thơ Quang Dũng bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế của tác giả bắt rất nhạy từ một làn sương chiều mỏng, từ một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt, rồi ông thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một nỗi niềm bâng khuâng thương mến và một áng thơ đẹp.

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ. Trên cái nền thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách anh hùng, kẻ thù cũng như gian khổ không gì khuất phục nổi.

Trên đường hành quân đã có những người lính hy sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết:

Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái chết cũng rất lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa gợi thương nhưng cũng rất bình thản. Những chiến sĩ Tây Tiến là những thanh niên Hà Nội chưa quen chuyện gươm súng gian khổ và họ đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió. Hình như tác giả không muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót thương nên ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:

Biết bao nhiêu điều đe dọa sinh mạng người lính. Câu thơ nói về những hiểm nguy ấy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sự bi lụy của cảm xúc ở câu trên. “Cọp trêu người” – có một cái gì đó rất nghịch ngợm, rất lính.

Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:

Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ, nhỏ bé trong cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lòng. Hương thơm ấy không chỉ là hương “nếp xôi” mà còn là hương từ đôi bàn tay em – cô gái Mai Châu.

Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng không bi lụy, mà vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh mới mẻ, gợi cảm và có chút lãng mạn.

Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ chúng ta hôm nay, gợi nhớ về “những năm tháng không quên” trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là “một tượng đài bất tử” về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn mình để tưởng niệm một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra đi mà nhiều người trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách thơ Quang Dũng, tài hoa, độc đáo.

Tây Tiến bài thơ được viết trong giai đoạn nước nhà căng mình để chiến đấu chống thực dân Pháp. Bài thơ giúp người đọc cảm nhận được tình đồng đội trong thời chiến, nhớ binh đoàn hùng mạnh Tây Tiến đặc biệt là trong đoạn đầu tiên. Nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên:

Nhớ về con sông Mã thân thương, rừng núi bạt ngàn. Tình cảm nhớ nhung ở đây khó có thể diễn đạt, lâng lâng đó là nỗi nhớ “chơi vơi”, hai từ nhớ liên tiếp lặp lại thể hiện cảm xúc trong đoạn đầu tiên đó là sự hoài niệm, cảm xúc nhớ thương da diết với con sông Mã và thiên nhiên miền Tây.

Hành trình của những người lính chẳng khác gì chuyến đi sinh tử, với địa hình vô cùng khắc nghiệt. Những dốc lên như dựng đứng, còn dốc xuống heo hút tựa như vực thẳm, chỉ những sai sót có thể trả giá bằng tính mạng. Khó khăn thử thách là như thế nhưng người lính luôn quyết tâm, hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện đầy sự lãng mạn, yêu đời của những binh đoàn Tây Tiến.

Trong những cuộc hành quân đó tác giả đã chứng kiến nhiều người kiệt sức đến nỗi “không bước nữa”, thực tế khắc nghiệt của chiến tranh đã có rất nhiều các chiến sĩ mãi mãi nằm lại trên con đường hành quân, hành trang của họ vẫn còn đó là “súng”, “mũ”, các chiến sĩ nằm lại nhưng vẫn bị tráng và trong tư thế người chiến sĩ. Tác giả nhớ về họ như những người anh hùng và không quên cảm phục tinh thần của những người lính cụ Hồ, cuộc đời dành cả tuổi thanh xuân tươi đẹp để cống hiến cho độc lập của đất nước, dân tộc.

Trong hai câu thơ cuối của đoạn 1 tác giả thể hiện cảm xúc tình cảm dạt dào với địa danh nổi tiếng Mai Châu:

Dừng quân nghỉ ngơi sau quãng đường hành quân mệt mỏi, khó nhọc. Những chiến sĩ Tây Tiến và bà con Tây Bắc như trở thành một nhà, quây quần cùng nhau bên nồi cơm đang lên khói. Nhớ ôi! là từ cảm thán thể hiện nỗi nhớ tha thiết, mãnh liệt. Những hình ảnh cơm lên khói, thơm nếp xôi là những hương vị đặc biệt của Tây Bắc thể hiện tình cảm khăng khít, thủy chung với đồng bào nơi đây đối với cách mạng. Chắc chắn những kỉ niệm trên sẽ không thể phai nhòa trong tâm trí những người chiến sĩ Tây Tiến.

Đoạn 1 chỉ vỏn vẹn 14 câu nhưng đã giúp người đọc hiểu hơn thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng. Đồng thời thể hiện sự gắn bó với thiên nhiên và con người Tây Bắc đó cũng chính là tấm lòng yêu đất nước của tác giả.

“Có một bài ca không bao giờ quên….”

Và cũng có một bài thơ như thế, những năm tháng như thế, khắc sâu vào tiềm thức bao nhiêu thế hệ người Việt ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai. Đó là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước và cả sự chiến đấu và hy sinh cao cả, trong đó đẹp nhất là hình ảnh người lính. Có rất nhiều bài thơ khai thác đề tài này, và bài “Tây Tiến” của Quang Dũng được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất. Bài thơ là nỗi nhớ về một thời chiến đấu gian khổ nhưng anh hùng của chính nhà thơ bên cạnh đoàn quân Tây Tiến.

Đoàn quân Tây Tiến tập hợp lực lượng đông đảo tầng lớp thanh niên khắp các phố phường Hà Nội. Họ rời bỏ chốn ngàn năm văn hiến vì lý tưởng chung của dân tộc lúc bấy giờ: “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.” Những chàng trai từ nông dân đến tri thức, từ đồ tể đến cả bác sỹ tất cả làm thành đội quân “Tây Tiến” hoạt động ở biên giới Lào để bảo vệ yên bình cho nơi này. Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng phải chuyển đơn vị sang Phù Lưu Chanh (Hà Tây), nhưng những ngày chiến đấu qua chưa lâu, Quang Dũng cồn cào nhớ về Tây Tiến đó là khơi nguồn cảm hứng của bài thơ.

Đoạn thơ khởi đầu bằng một nỗi nhớ bật lên thành lời:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được. Ngày xưa lại ùa về trong lòng. Biết bao là gắn bó với đồng đội cũng như là gắn bó với những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. Trải qua một thời càng khó khăn như thế thì nỗi nhớ càng đong đầy càng sâu sắc.

Khi nhắc tới Tây Tiến thì lại gắn với sông Mã, nó không chỉ là một chứng nhân của ngày tháng hào hùng mà còn ôm trong lòng bao vui buồn của đoàn quân. Vần ơi và dấu chấm than ở cuối cùng là cho câu thơ trở nên âm vang và có sức lan tỏa mạnh mẽ, khẳng định ấn tượng về một chốn rừng núi khắc nghiệt chẳng thể phai mờ. “Xa rồi” như một tiếng thở dài đầy tình cảm, nỗi nhớ dâng tràn:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Một nỗi nhớ hiện lên không hình, không tượng, không thể diễn tả được bằng lời, nó như tràn ra không gian xoáy vào lòng người. Người chưa từng trải qua thì không thể có được nỗi nhớ ấy. Với nỗi nhớ da diết một lần nữa vần ơi hô ứng ở Tây Tiến ơi của “nhớ chơi vơi” lan rộng, vọng vào thời gian năm tháng. Trong ca dao cũng có một nỗi nhớ như thế:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi.”

Thông thường, khi người ta nhớ thì thường gợi lên kỷ niệm nhưng đến với Quang Dũng thì chốn núi rừng lại hiện lên thi trung hữu họa.

Đọc đoạn thơ không cần suy ngẫm về nội dung của nó. Ta cũng có thể nhận ra nét vất vả gian truân của con đường hành quân nhờ vào thanh điệu. Kết cấu với nhiều vần trắc trải dài vô tận làm con đường hành quân sao mà gập ghềnh quá. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng có những câu thơ:

Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Nếu Tố Hữu miêu tả thắng cảnh sống của người lính thì Quang Dũng không làm thế. Nhà thơ tập trung vào thiên nhiên và qua đó người đọc hình dung được đời người lính Tây Tiến là như thế nào.

Nhà thơ đưa ra một loạt địa danh không chỉ gợi lên bao nỗi nhớ thương mà còn gợi lên những chốn thâm sơn cùng cốc. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày. Như thực như mộng, lúc này đoàn quân dường như đã quá mỏi mệt có thể ngã xuống, chìm vào trong sương bất cứ lúc nào với những cuộc hành quân đã qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối phía trước. Nhưng một câu thơ nhiều vần bằng lại làm cho tinh thần sức mạnh như vút cao lên.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Một câu thơ giảm đi cái mỏi mệt tiếp sức đoàn quân tiếp tục trên con đường còn lắm gian nan với dốc thì “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”. Toàn những từ láy tượng hình có sức gợi cảm cao làm cho con đường hành quân trở nên khó khăn vất vả hơn bao giờ hết. Điệp từ dốc diễn tả sự trùng trùng điệp điệp của dốc núi thẳng đứng, cheo leo. một khung cảnh hoang vu, xơ xác nhưng kì vĩ và hoành tráng vô cùng. Hai từ “heo hút” làm khung cảnh trở nên vắng vẻ hiểm trở. Cụm từ “súng ngửi trời” rất giàu chất thơ, lại miêu tả được độ cao đến ngất trời của núi rừng Tây Bắc. Cao đến nỗi mà người lính đứng trên đỉnh núi mà cảm nhận được chạm được tới bầu trời. Đúng là trong thơ có họa, Quang Dũng miêu tả chân thực tới mức mà núi cao vực thẳm sương mờ cứ sống dậy trước mắt người đọc.

Mặc dù khó khăn là thế nhưng những người lính này là thanh niên với tâm hồn còn rất chi là mơ mộng, và còn nét tinh nghịch của tuổi trẻ. Đứng trên cồn có mây che mà tưởng như mình đang đứng trên mây.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.

Một câu thơ như bẻ đôi ra vừa diễn tả được độ cao ngất trời với sườn cheo leo vừa tạo được độ sâu thăm thẳm.

Năm câu thơ đọc lên mà “vừa nghe đã muốn mòn chân, mỏi gối” (Trần Lê Văn) mới biết được cái tài tình trong thơ Quang Dũng. Nhưng khó khăn gian khổ là thế tất cả trở nên nhẹ nhõm đi rất nhiều nhờ một câu thơ toàn vần bằng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Khi đã lên đến đỉnh núi cao, những người lính mở rộng tầm nhìn ra xa tới các bản làng ẩn hiện trong sương. Làm ấm lòng người lính đã quá mệt mỏi. Họ nhìn vào đó để tiếp thêm sức mạnh mà chiến đấu, vì họ đang chiến đấu để bảo vệ cho nơi đó. Khó khăn tràn ngập là thế vậy thì người lính sẽ như thế nào:

Quang Dũng nói lên sự thực trên con đường Tây Tiến, bao người chiến sĩ đã nằm lại bên đường. Những nấm mồ mọc lên giữa núi rừng không một nén nhang cảm giác thật lạnh lẽo và hiu quạnh. Gian khổ khó khăn của đường hành quân, của nơi xứ lạ thử thách những chàng trai thành phố biết mấy. Có những người vượt qua được nhưng không ít người không thể. Họ chết không phải vì súng đạn quân thù mà vì căn bệnh sốt rét rừng và muôn vàn mưa nắng dãi dầu khó khăn gian khổ, chịu hết thử thách này tới thử thách khác nhưng chẳng nề hà. Trong bài “Đồng chí”, Chính Hữu cũng đã từng nói tới:

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Người lính chết đi nhưng cũng chết cho ra dáng người lính “gục lên súng mũ” đó là khí thế của người lính Việt Nam.

(Dáng đứng Việt Nam)

Gục lên súng mũ là cách nói của những chàng thanh niên Hà Nội giúp làm giảm đi nỗi đau của cái chết và nỗi tang thương đi rất nhiều. Người lính ra đi nhưng đồng đội của anh lại tiếp tục tiếp bước. Thiên nhiên lại tiếp tục thử sự chịu đựng của người lính với những nỗi đe dọa đến tính mạng:

Mối nguy hiểm hiện ra xung quanh không chỉ theo thời gian mà còn theo không gian. Cảnh tượng này không phải những người lính mới gặp lần đầu mà họ đã quen với nó. Dường như chiều nào tiếng ghê rợn ấy của núi rừng cũng đều vọng lại đều đặn, nên giờ đây khi họ nghe thấy tiếng thú dữ, tiếng thác gầm họ không còn sợ nữa. Họ xem đó là một thú vui trên đường dài vất vả. Từ “trêu” thể hiện rõ điều này.

Đối mặt với cuộc sống gian khó là thế nhưng những chàng trai Hà Nội vẫn cứ vươn lên và vượt qua tất cả để bước tiếp trên con đường họ đã chọn, không ngại ngần chùn bước:

Đây là tinh thần chung của người lính Việt Nam cũng như những chàng trai Tây Tiến. Và như thế họ vui lên trong khó khăn với một giọng thơ đằm thắm thiết tha đầy chất thơ mộng:

Những vất vả gian truân để chỗ lại cho cảm giác đầm ấm của tình quân dân. Câu thơ như một lời động viên nhẹ nhàng tiếp sức cho người lính trên đường dài.

Khổ thơ quả là một bức tranh chân thực về cuộc sống và về chính những người lính Tây Tiến. Dù khó khăn nhưng họ đã vượt qua bằng nghị lực bằng niềm lạc quan phơi phới vốn có của tuổi trẻ. Những người lính như họ đã làm nên đất nước. Bên cạnh nội dung khổ thơ là cả một đặc sắc về nghệ thuật, cách sử dụng phối hợp nhiều câu thơ vần trắc vẽ nên khung cảnh hoang vắng cùng với sự kết hợp hài hòa với những câu thơ vần bằng giúp tạo cảm giác nhẹ nhõm. Cách dùng điệp từ và ngắt câu tạo cho khổ thơ âm hưởng lúc thì dữ dội lúc thì nhẹ nhàng. Dùng các địa danh cụ thể nghe là ta cũng biết được phần nào nỗi khó khăn.

Qua đoạn thơ, Quang Dũng thể hiện nỗi nhớ cũng như lòng tự hào của mình đối với một thời để nhớ, làm sống lại cả một thời chinh chiến gian khổ và bức tranh thiên nhiên hùng vĩ hoang sơ mà nên thơ. Để từ đó khẳng định tinh thần vượt khó cũng như những hy sinh đi vào bất tử của anh bộ đội Cụ Hồ trong cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng vĩ đại.

Đâu là một tình yêu cho tổ quốc thiêng liêng, giữa hàng trăm thứ cảm xúc đang làm dao động trái tim mỗi con người? Có lẽ, lời hồi đáp ấy nên để mọi người chúng ta tự cảm nhận, tự hiểu và tự trả lời. Hơn ai hết, càng nghĩ ta lại càng thấu cho tình yêu đất nước của những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Chính chàng trai xứ Đoài mây trắng năm ấy cũng là một thành viên trong đoàn quân. Hiểu cho sự mất mát, hy sinh của đồng đội, bài thơ ra đời như phần nào nói lên nỗi lòng tác giả và các chiến sĩ Tây Tiến.

Ngay tại đoạn mở đầu bài thơ, tiếng lòng của những chàng tuổi vừa đôi mươi đã thốt lên bởi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, dấu ấn kỷ niệm đọng lại qua câu chuyện đời bao tâm hồn yêu nước thầm lặng:

Một bài thơ viết về nỗi nhớ Tây Tiến, thế mà hai câu mở đầu của đoạn lại có ý nhắc về “sông Mã” trước nhất. Phải chăng dòng sông Mã uốn quanh nơi đại ngàn Tây Bắc là hình ảnh đã đi sâu vào lòng người chiến sĩ?

Đây chắc hẳn là nơi đã gắn bó với các anh bằng những kỉ niệm đẹp nhất của thời trai trẻ, nơi mở đường cho những chiến dịch yêu thương, thắp cháy lên ngọn lửa của khát vọng tự do dân tộc hào hùng. Tiếng gọi nơi mái trường xin tạm dừng khép lại, dấu chân ai in dày trên những đỉnh núi cao, băng qua cánh rừng xanh những lá. Đoạn hành trình dài còn đó những gian truân, khó khăn và muôn vàn thử thách. Ở chốn xa, chỉ có tình đồng chí sống mãi, dìu dắt nhau vượt qua ngàn phong ba, bão táp.

Chính những hình ảnh tưởng chừng như bình thường ấy đã khiến các anh phải trở nên “chơi vơi” khi quay đầu nhìn lại. Thông qua cách sử dụng hai từ “chơi vơi” đặc biệt của tác giả, một nỗi nhớ da diết, triền miên được thổ lộ theo cách nhẹ nhàng nhưng khó phai nhất. Tâm tư kia như được khắc trong tim, được vẽ lên đá, tồn tại với thời gian qua nhiều dáng vẻ, hình thù khác nhau. Đồng thời, khi kết hợp cùng với từ cảm thán “ơi” ở câu trên càng nhấn mạnh nên một cảm xúc khó tả, một chút xuyến xao trong lòng của toàn đoàn quân Tây Tiến, trong đó có cả Quang Dũng.

Advertisement

Nếu như hai câu đầu của đoạn thơ sẽ là khúc dạo đầu của hồi ức kỷ niệm thì hai câu thơ tiếp theo có lẽ lại là những miêu tả về đoạn hành trình đã được lưu dấu:

Giữa những dãy sương mù dày đặc, giữa đêm gió rừng gào thét, đoàn quân vẫn miệt mài đi qua dù đang mỏi mệt, vất vả. Chút lãng mạn, nét đẹp thư sinh vẫn còn đó khi giữa đêm thâu nhận ra được hương hoa rừng lan tỏa. Bên cạnh mùi súng đạn tàn khốc, bên tiếng pháo, tiếng bom ngày đêm vang vọng, món quà nhỏ bé từ thiên nhiên ấy đã được các anh đón nhận thật chân thành nơi dải đất “Mường Lát” phảng phất hương thơm.

Nối tiếp những cung bậc cảm xúc ở phía trên, việc sử dụng những từ láy có tác dụng gợi hình như: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút của tác giả đã khắc họa nên bức tranh hành trình hiểm trở thêm phần sắc nét. Con dốc cao sừng sững ngất trời đầy gian nan, cách trở với đường đi quanh co, gập ghềnh khiến cho mỗi con người khi cất bước đi lên gặp nhiều nguy hiểm khôn xiết.

Ấy thế mà, dù băng qua gió, đi trong mây, nét hóm hỉnh của những chàng trai trẻ trong đoàn quân vẫn còn đó. Phải chăng phép nhân hóa “súng ngửi trời” kia của tác giả là minh chứng rõ ràng nhất trong bài thơ? Trước núi rừng hùng vĩ mây phủ quanh năm, giữa bộn bề nguy khó, sinh tử cận kề, tinh thần lạc quan của các anh vẫn luôn được gìn giữ. Cách gọi “súng ngửi trời” nghe sao thật ngộ nghĩnh, hồn nhiên, nhưng càng gọi lại lại càng thấy thương vô cùng. Thương cho cái gian truân, vất vả, thương cho bao gian khổ, khó khăn của chốn rừng thiêng nước độc mà những người lính trẻ xa nhà phải chịu đựng.

Là “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ngẫm phép đối mà mới hay cho cảnh sắc thiên nhiên nơi đất trời Tây Bắc, người ở dưới nhìn lên như chốn tiên lạc xa xăm, kẻ ở trên nhìn xuống mịt mờ mây và sương mù che kín. Những ngọn núi, đồi cao, quanh năm không dấu chân người qua lại, “heo hút”, trùng trùng điệp điệp nay đã có các anh đi qua, mang theo cùng mùi sương vị gió.

Tạm dừng những câu thơ kết hợp nhiều thanh trắc miêu tả cảnh dốc đồi, tác giả đã viết nên một câu thơ với vần bằng xuyên suốt hết câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một thoáng mênh mang đã tái hiện lên giữa cuộc hành quân, khi các anh dừng chân nơi ngọn đèo xa lạ, nhìn thấy bản Pha Luông cùng với những ngôi nhà. Tiếng “nhà” gọi lên nghe chiều bâng khuâng, làm xao xuyến mỗi tâm hồn, một tiếng khẽ thôi nhưng chứa nhiều nỗi man mác khôn nguôi, khó tả. Là vì lẽ đứng trước nơi chốn lạ trông thấy cảnh vật xa xăm mà gần gũi? Hay là vì nỗi nhớ nhà vẫn luôn gìn giữ nơi tim mỗi chàng trai Hà Thành cả một thời thơ dại chưa bao giờ rời xa mảnh đất cố hương?

Nơi núi rừng Tây Bắc hoang dã, là những ngọn núi ngất trời, những cánh rừng sâu đầy dã thú, con dốc cao sừng sừng cản bước chân người. Hành quân nơi địa hình hiểm trở như thế ranh giới của sự sống và cái chết thật thật mong manh và khó đoán. Đã có các anh phải kiệt sức vì chặng đường khắc nghiệt, gian nan, bỏ lại sau lưng chí hướng, những đồng đội trên đường. Thương những con người “dãi dầu không bước nữa”, để rồi “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bởi cái cảnh mưa ngàn, thú dữ, tiếng cọp hoang văng vẳng đêm đêm nơi xứ Mường Hịch, tiếc thác chảy thét gầm trong những chiều hoàng hôn phủ lặng…

Sau những chặng đường dài nguy khó, hai câu thơ cuối kết thúc đoạn một đã khiến người đọc cảm nhận lại được chút ấm áp, dịu nhẹ bên những kỷ niệm chan chứa tình người nơi các anh lính trẻ đi qua:

Gác lại phút trắc trở băng rừng, lội suối, các anh dừng lại, ngồi bên nhau quây quần nơi bản làng xa lạ nào đó. Mùi khói bếp xông lên xen lẫn tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng, nồng ấm tựa anh em một nhà. Là hương nếp xôi nơi đất Mai Châu đã giữ dấu ân tình, là buổi chuyện trò trong những bữa cơm ngạt thơm vị khói đã làm đậm nên những kỷ niệm không phai, khó mờ.

Chiến tranh đã trôi qua rất lâu, mỗi khi nhìn lại đó là những khoảng lặng, nốt trầm trong ta, để ta thêm biết ơn, thêm tự hào cho những người lính qua đoạn một bài thơ Tây Tiến nói riêng và và các chiến sĩ đã hy sinh vì dân tộc nói chung. Nhưng, với những con người ấy, những con người đã ngã xuống vì tình yêu đất nước thì đó lại là những quãng cao nhất, bản hòa âm phối khí tuyệt vời về tuổi trẻ và cuộc đời trong khúc ca đầy anh hùng của đời mình.

Tây Tiến là một tác phẩm nổi bật về hình ảnh người lính của tác giả Quang Dũng. Bài thơ là một bức tranh tái hiện lại hình ảnh các chiến sĩ hành quân nơi rừng núi Tây Bắc hùng vĩ và hiểm trở. Tác phẩm giúp người đọc cảm nhận được nỗi nhớ của tác giả về binh đoàn, tình cảm đồng đội và cả thiên nhiên nơi đây. Đặc biệt là khổ 1 của bài thơ, hình ảnh đó luôn khiến người đọc thổn thức và khắc khoải trong suy nghĩ.

Mở đầu đoạn thơ tác giả đã thể hiện ngay nỗi nhớ dòng sông Mã, đội quân Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc thân thương. Quang Dũng dùng từ rất tha thiết “xa rồi” gợi lên nỗi nhớ không thể nào nguôi ngoai, da diết tới quặn lòng, nỗi nhớ “chơi vơi”. Thán từ “ơi” kết hợp cùng từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, hồi hộp và ngân dài bao trùm cả không gian và thời gian. Bên cạnh đó, tác giả còn thể hiện một tâm tình đẹp của những người lính Tây Tiến với dòng sông Mã anh hùng và núi rừng Tây Bắc.

Những câu thơ này tác giả muốn miêu tả về chặng đường hành quân đầy gian nan, thử thách và chông gai mà binh đoàn Tây Tiến phải vượt qua. Các tên địa danh như Sài Khoa, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn đầy lạ lẫm đối với những người lính lần đầu đặt chân tới. Sương mù vùng Tây Bắc luôn dày đặc như trùm lấy bước chân, buốt chửng binh đoàn vốn đang rệu rã, mệt mỏi vì chặng đường dài đầy gian khổ.

Nhưng những người lính trẻ ấy vẫn có một tâm hồn lạc quan, yêu đời. Qua hình ảnh “hoa về trong đêm rơi” như những ánh đuốc lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng. Nhiều người lại cho rằng đó là những đóa hoa rừng ngát hương như chào đón đoàn quân. Cũng có thể đó là một hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiên giống như những bông hoa rừng đầy sức sống giữa “đêm rơi”.

Nhịp thơ 4/3 cùng các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” và mật độ thanh trắc dày đặc đã gợi cho người đọc sự nhọc nhằn, vất vả mà những người lính phải trải qua. Núi rừng Tây Bắc luôn luôn hiểm trở gập gềnh, ẩn chứa nhiều mối nguy hiểm.

Hình ảnh ” súng ngửi trời” là một nhân hóa táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Phép đối “ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống” càng nhấn mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Nếu như 3 câu thơ tái hiện sự hùng vĩ, hoang vu trên con đường hành quân của người lính thì câu thứ 4 lại gợi cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng. Toàn bộ là bảy thanh bằng ” Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, vần mở “ơi” mang tới sự bình yên gợi ra giây phút thư giãn nghỉ ngơi của người lính. Đứng trên đỉnh núi, phóng tầm mắt quan sát có thể thấy mưa rừng giăng mờ bản Pha Luông ở phía xa xa. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự hoang vu dữ dội mà sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhưng cũng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.

Trong 2 câu thơ này, tác giả sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh về cái chết của người lính “không bước nữa”, “bỏ quên đời” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Trước cái chết họ không hề lo lắng bởi họ đã chủ động chấp nhận cái chết, xem đó đơn giản chỉ là một giấc ngủ. “Gục trên súng mũ” một tư thế xót xa nhưng cũng đầy hào hùng của người lính đã anh dũng hy sinh.

“Chiều chiều”, “đêm đêm” là những từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian, kết hợp cùng biện pháp nhân cách hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” càng khiến người đọc cảm nhận được sự bí hiểm, hoang dã ẩn chứa bao nhiêu nguy hiểm, tính mạng người lính có thể bị đe dọa bất cứ lúc nào. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian.

Đến với 2 câu thơ tiếp theo thì không còn núi cao rừng rậm nữa, thay vào đó là hình ảnh ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm của đồng bào. Từ cảm thán “Nhớ ôi” đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của tác giả cũng như những người lính Tây Tiến đối với những người dân Tây Bắc. Đây cũng là 2 câu thơ nhói lòng khi tác giả hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần bên mâm cơm, nồi xôi nếp thơm lừng nóng hổ như xóa tan mọi mệt nhọc, lạnh giá. Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.

Khổ thơ đầu Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ với ngôn từ giàu nhạc điệu và chất tạo hình, thành công khắc họa bức tranh sinh động và có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến ở không gian thiên nhiên rừng núi hùng vĩ của Tây Bắc. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được sự gắn bó, nỗi nhớ tha thiết của tác giá về những ngày “đồng cam cộng khổ” cùng những “đồng chí” trong đoàn quân Tây Tiến.

Tây Tiến đã được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của tác giả Quang Dũng và của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt, đặc biệt là của những năm đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian nan và khổ cực. Những chàng thư sinh áo trắng đã rời bỏ bút mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, và vì nền hòa bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang được những nét lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức trốn Hà Thành. Điều ấy được nhà thơ Quang Dũng tái hiện một cách rất xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng với ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu và rất mực tài hoa và lãng mạn. Với khổ thơ đầu, nhà thơ cũng đã hướng về nội tâm của người lính chiến, cũng chính là bản thân đối với tác giả với những nỗi nhớ tha thiết của miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt lên khó khăn gian khổ của người lính nơi Tây Tiến.

Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây nay đã sát nhập Hà Nội, ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa là nhạc sĩ và vừa là họa sĩ chính vì thế thơ ông rất giàu chất nhạc , chất họa. Quang Dũng cũng còn là một người lính ưu tú, tham gia nhiều chiến trường khác nhau cho nên những vần thơ của ông về người lính rất chân thật và sống động, sức truyền cảm mạnh mẽ, phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ như: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, thành phần chủ yếu chính là những thanh niên Hà thành, nhận nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động đã trải rộng suốt từ vùng Sơn La, Hòa Bình và đến Sầm Nứa (Lào), rồi vòng về vùng phía tây Thanh Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu lúc đó vô cùng gian khổ. Tây Tiến đã sáng tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, tác giả Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng ở binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đổi thành Tây Tiến, một nhan đề hàm súc và cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là chính nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ cảm hứng lãng mạn và thật tinh thần bi tráng.

Nỗi nhớ về một nơi Tây Bắc dữ dội, đã được thể hiện trong 14 câu thơ đầu.

Với hai câu thơ đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/”Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”, đã gợi lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời mà đã qua, về một vùng đất đã xa. Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết và khắc khoải, Tây Tiến không chỉ còn là một cái tên mà dường như nó cũng đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng còn gọi tên “sông Mã” ngay từ những câu thơ đầu, địa danh ấy cũng là hiện thân tiêu biểu của một vùng rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ còn là một địa danh trên bản đồ địa lý mà đã trở thành người bạn, người tri kỷ và là chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt cuộc đời trường chinh. Thế nên trong nỗi nhớ Quang Dũng, trước hết là nhớ về binh đoàn Tây Tiến thân yêu và sau là về Tây Bắc với dòng sông Mã vương đầy kỷ niệm. Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, đã có trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh của rừng núi và đó là nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng! Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì là hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng chính người lính chiến. Tác giả Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang khắc khoải bên trong lòng tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại là một cách diễn tả nỗi nhớ rất riêng của nhà thơ Quang Dũng. Đó là cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng và chông chênh trong một nỗi hoài niệm xa xôi, và bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng thật lắm oai hùng.

Nếu như 2 câu thơ đầu đó là nỗi nhớ bao trùm thì ở 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ thật sự khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ về Sài Khao, Mường Lát và trong đó “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địa bàn hoạt động của một đoàn quân Tây Tiến, từ đó đã kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như chính Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu,…và dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp một chiều không gian, mỗi nơi mà nhà thơ từng bước chân đến và đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều cảm thấy yêu thương gắn bó, trích lời của nhà thơ Chế Lan Viên “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”. Có thể thấy mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của chính nhà thơ không thể phai mờ, đó cũng là tình cảm thắm thiết sâu nặng, và cũng trích lời của Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn đã gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát trong màn sương mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên nơi núi rừng, đồng thời là vẻ đẹp đông đảo, và đoàn kết của người lính chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, và dường như vẫn còn như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ một nỗi nhớ sâu sắc của tác giả, bởi kỷ niệm đó càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến cả một cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây không có thể hiểu là ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác hơn, chính thì hoa ấy là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa được gợi lên nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…

Sau nỗi nhớ về Mường Lát và về Sài Khao chính là kỷ niệm về những ngày hành quân chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở và nguy nan.

Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh của những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết được. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co và lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của nơi núi rừng, bên là vách núi bên là vực thẳm, sự hun hút của cung đường. Cả câu thơ đã gợi mở một không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng người lính đang phải nỗ lực hết sức mình để vượt qua những chặng đường đầy những nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” với sự kết hợp với nghệ thuật tương phản “lên cao và xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót của đỉnh dốc, và vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính chất hùng vĩ, nơi hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên chính trên những khó khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên có hùng vĩ, trùng điệp, và khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân của binh đoàn Tây Tiến, những người lính đã hiện lên với tầm vóc là một đối thủ xứng tầm của nơi thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, và lạnh lẽo của núi rừng, nơi dường như chưa từng có bước chân người đến, cũng chính vì người lính hành quân trên những ngọn núi cao chót vót, cho nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như đang đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải núi rừng.

Hình ảnh “súng ngửi trời” là một trong những hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của tác giả Quang Dũng, vì người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi có thể chạm đến tầng mây, thì những khẩu súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng cả trời xanh kia, nói là “súng ngửi trời” đó chính là cách cảm nhận thật tinh nghịch của những người lính trẻ lãng mạn, và hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có âm điệu thật khác so với ba câu thơ ở trên, lời thơ nhẹ nhàng trầm xuống, tưởng tượng những người lính chiến từ trên đỉnh núi cao mà phóng tầm mắt xuống, thấy cảnh vật mơ hồ không sắc nét, nhưng đó là dấu hiệu của một sự sống, “mưa xa khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của những làn mưa trắng xóa. Đó là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, cũng đồng thời cũng gợi lên trong tâm hồn người lính những cảm giác yên bình, về chốn dừng chân, để tiếp thêm động lực cho những chặng đường sắp tới trước mắt.

Sau những ngày hành quân gian khổ, thì đây là lúc hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của một người lính Tây Tiến.

Cái gọi “anh bạn” thể hiện một thứ tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và “bỏ quên đời” đều là cách nói giảm tránh về cái chết, điều đó là giảm đi sự đau thương mất mát, và đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần của người lính chiến dẫu có hy sinh đến đâu cũng không hề rời đi trách nhiệm, trang bị gắn bó với những đời lính, đó là một tư thế ngang tàng, gan góc, và quả cảm của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên đã có sự đau đớn xót xa của nhà thơ với người đồng đội đồng thời cũng là những tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh, nhưng không hề giấu đi được những nỗi đau mất mát.

Tiếp đến là những nỗi nhớ về một thời gian khổ và lãng mạn, điều ấy được thể hiện rõ ràng trong 4 dòng thơ sau đây:

Cấu trúc thơ tân kỳ độc đáo, và dùng động từ mạnh mẽ trong câu “Chiều chiều oai linh thác đã gầm thét” thể hiện cái dữ dội, hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng núi Tây Bắc. Bên cạnh đó, không chỉ đã dừng lại ở sự hoang sơ hùng vĩ, mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa biết bao những mối hung hiểm khôn lường, Quang Dũng viết “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, nơi rừng thiêng nước độc, đã lại còn có sự hiện diện của ác thú. Mãi chìm trong những ký ức những nhà thơ bỗng sực tỉnh “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Tây Tiến nơi đã xa, Tây Bắc cũng đã xa lắm rồi, chỉ còn lại những kỷ niệm. Nỗi nhớ ở đây được bộc lộ một cách tha thiết, cồn cào, và nhớ cả về những bát cơm, hương khói lửa, nắm xôi ấm tình quân và dân, đồng thời cũng gợi lên một thời kháng chiến vừa vất vả vừa lãng mạn, thật thi vị nên thơ.

Suốt 14 dòng thơ đầu đều đã xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của những người lính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn trong khi tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng đó. Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng cũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ nơi khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về cả một thời kháng chiến đã đi qua với những giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ đã biến đổi, tất cả đã tạo nên một âm hưởng thật riêng, một phong cách riêng của những người lính Tây Tiến.

………………

Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao Dàn Ý &Amp; 16 Bài Phân Tích Bài Chí Phèo

Phân tích bài Chí Phèo siêu hay

Dàn ý phân tích bài Chí Phèo

Phân tích Chí Phèo học sinh giỏi 

Phân tích Chí Phèo (5 Mẫu)

Phân tích bài Chí Phèo (5 Mẫu)

Phân tích tác phẩm Chí Phèo (5 Mẫu)

Dàn ý phân tích bài Chí Phèo

I. Mở bài

– Vài nét tiêu biểu về tác giả Nam Cao: Ông được xem là đại diện xuất sắc nhất của văn học hiện thực ở chặng đường phát triển cuối cùng của khuynh hướng này

– Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo: Truyện ngắn kết tinh thành công của Nam Cao trên đề tài nông thôn, nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng

II. Thân bài

1. Làng Vũ Đại – không gian nghệ thuật của truyện ngắn

– Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm , ngột ngạt.

– Đời sống của người nông dân vô cùng khổ cực bị đẩy vào đường cùng không lối thoát, bị tha hóa.

⇒ Không gian nghệ thuật làm cơ sở đi sâu khai thác hình tượng nhân vật, đồng thời thấy được giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm

2. Nhân vật Bá Kiến

– Tiếng cười Tào Tháo, mềm nắn rắn buông, dùng đầu bò trị đầu bò… ⇒ Xảo quyệt, gian hùng, thủ đoạn

– Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông và độc ác

⇒ Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng

3. Hình tượng nhân vật Chí Phèo

a. Sự xuất hiện của nhân vật

– Hắn vừa đi vừa chửi…: sự xuất hiện tự nhiên

– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên: Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi nhưng đằng sau đó thấy Chí Phèo mong muốn được coi là người bình thường

b. Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù

– Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa

– Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:

+ Là một con người lương thiện làm ăn chân chính với ước mơ giản dị và có lòng tự trọng

c. Sự biến đổi của Chí Phèo sau khi ra tù

– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.

Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và quái dị.

– Hậu quả của những ngày ở tù:

Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.

Nhân tính: triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.

– Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến

⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính

d. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở

– Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo.

Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.

Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc

Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.

– Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa: lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc.

⇒ Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh

e. Bi kịch bị cự tuyệt

– Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .

– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở

Sau Chí hiểu ra mọi việc: xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

⇒ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.

4. Đặc sắc nghệ thuật

– Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.

– Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo.

– Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic.

– Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.

III. Kết bài

Khẳng định lại những nét tiêu biểu nhất về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo

Với tác phẩm này, nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến và đồng thời trân trọng, phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng chừng học đã biến thành quỷ dữ

……………….

Phân tích Chí Phèo học sinh giỏi

Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa : đó là việc nhà văn đã nói thay cho những người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía – tiếng nói khát khao được sống như một con người.

Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí Phèo là cả một kì vọng. Bởi hai tiếng “Con người” đối với người đàn ông thua thiệt, bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong ; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có, sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được. Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu.

Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng :

– …”Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng…”

– …”Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.

” – …”Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh.” – v.v.

Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có “năm hai mươi tuổi…”, hoặc “hồi ấy…”.

Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo!

Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình : Tao muốn làm người lương thiện”. Nhưng : ” – Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách… biết không !… Chỉ còn một cách là… cái này ! Biết không !… Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhổm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến.

Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.” Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo : Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc : hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,…

Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước muốn “làm người” của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện “làm người” thậm chí đã thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nửa ! Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn “trợn ngược”, “mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng”. Cơ duyên tìm cuộc sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng.

Nhưng thế nào mới được xem là người ? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy ?

Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền, là lương thiện,… ? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thỏa đáng cho mình. Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và sau khi đã tỉnh rượu (trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về và trước khi tỉnh rượu). Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng hạn : “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt” ; “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.

Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng bàn tay và sức lao động của mình (như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí Kiến). Là người thì phải biết sống tự trọng (như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba). Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện với mọi người (như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở),…

Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm, bất bình, căm uất,… cũng phải như một con người. Nhưng đây mới là điều tối quan trọng : ý thức về quyền sống như một con người, sống cho ra một con người. Là người thì có quyền đòi hỏi cả xã hội phải công nhận mình như một con người. Hiểu như thế, người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa ? Chỉ là những gì tối thiểu và chính đáng nhất. Thế mà “không được !”. Lỗi ấy tại ai và do đâu ? Vì Chí Phèo ? Vì bá Kiến ? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại ? Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này. Bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo.

Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi (cho dù là phạm trong lúc say). Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh “đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Món nợ ấy biết trả đến bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả ngoại hình Chí Phèo : “Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?”, ta không nên hiểu đó là miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch được. Nó sẽ trở thành một thứ mặc cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này : “Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !”. Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn : có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn.

Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,… chính là để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ – thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc càng rõ – tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình. Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ? Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình. Nam Cao đã rất khách quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí Phèo. Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự : “Chưa bao giờ hắn tỉnh…”, “Có lẽ hắn cũng không biết rằng…”, “Hắn biết đâu…” “Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả trong lúc say.” Mà “Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng : chính lúc Chí Phèo nhận ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng : về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ ; rằng : con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; v.v. Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi, sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì người ta không chỉ thấy giận (giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo), thấy thương (thương một kẻ có số phận bi đát), mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ” ; “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”, “Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi”. Những cái “giá…”, cái “sẽ…”, cái “hay là…” như vậy – trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật – rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy. Cháo hành “rất ngon” ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị Nở phũ phàng dúi ngã “lăn khoèo xuống sân”, chí Phèo vẫn “thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành”.

Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên “làm người lương thiện” của Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi. “Chí Phèo” là tiếng nói của niềm khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn. Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này – Chí Phèo – là một “thằng đầu bò”, một “con vật lạ”, “gã lưu manh” hay “tên quỷ dữ”,… Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo là một người lao động lương thiện, một anh canh điền “hiền như đất”. Nhưng dù là nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong : ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó trong chính tâm hồn anh ta. Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính. Sự lựa chọn này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều thuộc về một chủ thể : Chí Phèo. Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật, nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con người bên trong của mình.

Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu, được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời văn nửa trực tiếp độc đáo và bằng một khung cú pháp đặc thù : Hắn + động từ tâm lí (Hắn thấy…, hắn nghe…, hắn sợ,…). Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo : “Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn…”, “Hắn sợ rượu…”. “Hắn lại nao nao buồn…”, “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.”. “Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.”. “Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon”. Ngược về quá khứ, “nhớ đến bà Ba”, “hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.”. Nhìn vào hiện tại, hắn “trông thị thế mà có duyên”, hắn thấy “như yêu thị”, và khám phá ra rằng “đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say”. Rồi, “hắn thấy lòng thành trẻ con”, “hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Và điều tự phát hiện này mới cực kì quan trọng : “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?”. Hoặc : “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.” Cứ thế, mỗi một lần “Hắn thấy…”, “Hắn .vợ…”, “Hắn nhớ…”, “Hắn muốn…” là mỗi lần cõi thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng người.

Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này (những diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu đời mình).

Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người : biết cười khóc, buồn vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. (Chí Phèo muốn xóa bỏ thù oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu hiện đặc biệt của tình bạn, tình người). Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến : Thị Nở đâu chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ (không phải ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón hương vị thơm thảo của tình người).

Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha.

Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của người trí thức nghèo như Điền, như Hộ, như Thứ,… thực ra, cũng dễ hiểu. Là một giáo khổ trường tư, một văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống.

Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay, và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông. Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật đáng phục và dáng trọng. Điều đó càng chứng tỏ rằng Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sâu sắc, và một tấm lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.

Phân tích Chí Phèo

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.

Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.

Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.

Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.

Các nhân vật trong truyện của Nam cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng, bà cô Thị Nở v.v… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng, ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí.

Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão chính là kẻ thù của. mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm.người của mình.

Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn, đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh, và cả sau khi đi tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa, làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn.

Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới, chống đối một người như Bá Kiến vừa đế thỏa sự căm giận, vừa có dịp để lên mặt với những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo, một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Gặp Lí Cường, bị Lí Cường quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê.

Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy, là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào vườn ở bãi sông cấm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao giờ cũng say, và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng.

Advertisement

Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn. Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”. Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi được làm người lương thiện, và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người.

Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Sau những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say, hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.

Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả.

Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.

Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống.

Phân tích bài Chí Phèo

Trong số những kiệt tác văn học hiện thực của nền văn học Việt Nam thời kỳ trước, thì “ Chí Phèo” của Nam Cao là tác phẩm nổi bật khi phản ánh được hiện thực rõ nét của xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công và tội ác của những kẻ xấu xa. Đồng thời hình ảnh người nông dân bần cùng bị hoàn cảnh xô đẩy cũng được khắc họa rất thành công.

Nhân vật chính của tác phẩm cùng tên với tiêu đề, đó chính là Chí Phèo. Vốn là một người nông dân hiền lành, lương thiện thật thà nhưng lại bị xã hội chà đạp, chèn ép, dẫn đến bước đường cùng là trở thành một kẻ sát nhân. Chí Phèo xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm bằng những tiếng chửi rủa, “ hắn chửi trời, chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại… chửi đứa nào đẻ ra hắn…” Những tiếng chửi như để bắt đầu cho cuộc đời tăm tối và đầy bi kịch của hắn.

Hắn, Chí Phèo sinh ra đã bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ, người làng truyền tay nhau nuôi hắn lớn. Vì có sức khỏe nên hắn đi làm ở cho nhà Bá Kiến. Thấy hắn như vậy, Bá Kiến ghen tuông, tìm cách đẩy hắn vào tù. Và bắt đầu từ đây, Chí Phèo sinh ra những nỗi đau, những oán hận chồng chất với cuộc đời. Chí Phèo dần dần không còn là một người nông dân lương thiện nữa mà đánh mất đi chính bản thân mình. Hết hạn tù, Chí Phèo về làng và trở thành một con người hoàn toàn khác. Chí Phèo xuất hiện với hình ảnh “ cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết.” Người nông dân hiền lành trước đây đã biến mất, thay vào đó là hình ảnh gớm ghiếc khiến người khác nhìn vào cũng có vài phần ghê sợ.

Chính những con người trong xã hội phong kiến thối nát ấy, đã khiến cho bản tính hiền lành, nhân cách lương thiện cùng ham muốn làm người của Chí Phèo bị cướp mất. Hắn biến thành một kẻ xấu xa, sống nhờ việc đi rạch mặt ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Không biết bao nhiêu gia đình ở cái làng Vũ Đại này đã bị hắn phá tan. Dân làng không ai không sợ khuôn mặt gớm ghiếc cùng những hành động tàn bạo ấy. Hắn bị mọi người xa lánh, ghét bỏ. Cuối cùng, không còn cách nào khác lại trở về làm thuê cho nhà Bá Kiến. Chí Phèo có lẽ đã tiếp tục lâm vào bước đường cùng, khi hắn phải trở về làm thuê cho kẻ đã đẩy hắn xuống địa ngục như bây giờ. Nỗi đau của Chí Phèo nhưng có lẽ cũng là nỗi đau chung của những con người thấp cổ bé họng, bị áp bức đến nỗi rơi vào bế tắc trong xã hội phong kiến ấy.

Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao xây dựng rất thành công. Nhân vật điển hình cho sự tha hóa, bế tắc, bần cùng của xã hội phong kiến thối nát ngày ấy. Và nếu chỉ có như vậy thì chưa đủ để Chí Phèo trở thành kiệt tác. Nam Cao đã khơi gợi sự khát khao một mái ấm gia đình, được yêu thương như bao người khác của Chí Phèo. Tình huống tác giả đưa ra, để cho Chí Phèo gặp Thị Nở trong vườn chuối sau khi hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện trong đời hắn với bát cháo hành đã khiến cho chính bản thân Chí Phèo cũng như người đọc cảm thấy vẫn còn chút hy vọng thắp sáng cuộc đời tăm tối của hắn. Nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ thô kệch, xấu xí, nhưng lại là điểm sáng thắp lên hy vọng của Chí Phèo. Thị Nở xuất hiện đã đánh thức lương tri, đánh thức con người vốn lương thiện hiền lành của Chí Phèo. Chi tiết “ bát cháo hành” là một chi tiết, hình ảnh nghệ thuật đắt giá, giàu giá trị nhân văn sâu sắc, biểu hiện cho tình cảm giữa người với người trong xã hội thối nát đó.

Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo nhận ra cuộc đời ngoài kia vẫn còn nhiều điều tốt đẹp. “ Hắn thấy già yếu, bệnh tật và cô độc còn đáng sợ hơn cả ốm đau bệnh tật. Hắn khát khao làm hòa với mọi người.” Đến giờ phút này, có lẽ hắn đã biết rằng mình cũng cần một cuộc sống như mọi người. Một cuộc sống bình thường, không phải đâm thuê chém mướn, không phải rạch mặt ăn vạ người ta nữa. Mong ước bình dị nhưng dường như với Chí Phèo lại vô cùng lớn lao, khó thực hiện.

Vậy nhưng một lần nữa, xã hội phong kiến thối nát, nghiệt ngã, tàn nhẫn ấy đã không để cho mong ước bình dị làm người lương thiện của Chí Phèo được trở thành hiện thực. Đó là khi bà cô của Thị Nở xuất hiện, và bà cô phản đối Chí Phèo và Thị Nở đến với nhau. Không chỉ vậy, bà ta còn mắng mỏ, chì chiết Chí Phèo bằng những lời lẽ ác nghiệt, cay độc nhất. Bà cô ấy có lẽ chính là nhân vật tiêu biểu, hiện thân của xã hội phong kiến xấu xa, đã cự tuyệt, từ chối một cách tàn nhẫn khát khao làm người lương thiện của Chí Phèo, đẩy hắn vào bước đường cùng của cuộc đời. Chính vì thế, Chí Phèo một lần nữa rơi vào tuyệt vọng, hắn đau đớn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù, để giết cái kẻ đã làm hại đời hắn.

Chí Phèo giết chết Bá Kiến, sau đó hắn tự tay kết liễu cuộc đời tối tăm của mình. Hình ảnh Chí Phèo nằm giãy đành đạch giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến, hét to lên rằng “ Ai cho tao làm người? Ai cho tao lương thiện?” đã khắc sâu vào trong tâm trí cũng như ám ảnh bất cứ người đọc nào. Không ai cho hắn lương thiện. Từng con người không cho, nên cái xã hội ấy chắc chắn không cho. Một tấn bi kịch đối với cuộc đời của Chí Phèo, người nông dân lương thiện nhưng sinh ra trong xã hội đầy rẫy những bất công cùng sự tàn nhẫn.

Thật vậy, chỉ có ngòi bút sâu sắc của Nam Cao mới có thể xây dựng được một cách thành công đến thế hình tượng nhân vật điển hình của sự áp bức, bất công thời bấy giờ. Đọc Chí Phèo, người đọc sẽ ám ảnh mãi không thôi, cũng như đọng lại sâu sắc niềm thương cảm với thân phận của những con người sinh ra nhầm thời, vì hoàn cảnh mà phải lâm vào bước đường cùng, trượt dài trong hố sâu của tội lỗi.

……………..

Văn Mẫu Lớp 12: Dàn Ý Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Sóng (3 Mẫu) Sóng Của Xuân Quỳnh

I. Mở bài

– Cách 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ.

Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt nữ nổi bật của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. “Sóng” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Quỳnh luôn luôn trăn trở, khao khát được yêu thương gắn bó. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Đoạn thơ sắp phân tích sau đây nằm ở phần cuối của bài thơ. Có thể xem đó là đoạn tiêu biểu nhất của tác phẩm về nội dung và nghệ thuật biểu hiện:

– Cách 2: Giới thiệu đề tài và theo kiểu tương liên (so sánh).

“Yêu là chết trong lòng một ít”

(Xuân Diệu)

Xuân Diệu, Ông hoàng của thơ tình Việt Nam từng bày tỏ: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Lời tự sự của Xuân Diệu biểu hiện quan niệm về tình yêu nhuốm màu đau thương bi quan, bế tắc trước cuộc đời. Với nữ sĩ Xuân Quỳnh lại có một quan niệm mới về tình yêu, tình yêu là sự sống là khát vọng, ước vọng một tình yêu được dâng hiến và vĩnh hằng bất tử. Điều này được thể hiện rõ qua hai khổ thơ cuối trong bài thơ “Sóng” của nữ sĩ:

II. Thân bài

1. Khái quát trước khi phân tích

– Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, sau được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển và những con sóng lòng đang khao khát tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng cùng song hành và hòa điệu, đó là “Sóng” và “Em”. Hai hình tượng này đã tạo nên nét đáng yêu cho bài thơ.

– Đọc cả bài thơ ta thấy quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh, ngoài vẻ đẹp truyền thống là nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt và nghị lực niềm tin. Đến hai khổ cuối, ta còn thấy nữ sĩ có một ước vọng thật đẹp là tình yêu được tan vào sóng để dâng hiến và bất tử vĩnh hằng.

2. Cảm nhận, phân tích đoạn thơ

a. Khổ thơ thứ nhất, nhà thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và cái hữu hạn của cuộc đời, nhất là của tình yêu.

– Không dừng lại trong niềm tin vào tình yêu như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm giàu suy tư của Xuân Quỳnh tiếp tục mở ra những trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những hình ảnh của thời gian và không gian:

– Thời gian và không gian được đặt trong hai bình diện đối lập: “cuộc đời” và “năm tháng”; “biển cả” và “mây trời”. “Cuộc đời” chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp người, “năm tháng” là hoán dụ cho dòng thời gian vô thủy vô chung; “biển cả” là một không gian mênh mông nhưng vẫn chỉ là hữu hạn, còn “mây trời” lại gợi sự phiêu du trong vũ trụ vô cùng vô tận.

– Cuộc đời tuy dài, biển cả tuy rộng nhưng năm tháng sẽ đi hết cuộc đời như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ đến với những không gian bao la trong vũ trụ không cùng. Khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và cái hữu hạn của cuộc đời, nhất là của tình yêu, cảm giác hữu hạn này thường xuất hiện ở những con người từng trải, nhất là từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương, và vì thế, luôn khao khát sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng, vô hạn. Cũng có thể nhận ra thoáng buồn bã, tiếc nuối của nhà thơ khi tình yêu và khát vọng tình yêu của loài người tồn tại vĩnh hằng như biển cả, còn cuộc đời mỗi con người lại ngắn ngủi, mong manh như một áng mây phù du.

– Cảm giác về sự hữu hạn thường khiến con người buồn bã, bất lực. Xuân Diệu từng sợ chính cái hữu hạn của lòng mình: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”. Xuân Diệu cũng đã từng giục giã: “Mau với chứ, vội vàng lên mấy chứ – em, em ơi, tình non sắp già rồi”. Và khi không thể “tắt nắng” hay “buộc gió” để níu kéo năm tháng, để gìn giữ hương sắc cuộc đời, để nới dài hơn quỹ thời gian cho tình yêu và hạnh phúc, Xuân Diệu tìm đến một giải pháp mãnh liệt đầy nam tính, đó là vội vàng tận hưởng cuộc đời một cách say sưa, ham hố khi còn có thể, từ “ôm cả sự sống” đến say đắm “riết, thâu, hôn, cắn… từ “mây đưa gió lượn” đến “non nước, cỏ cây”…

b. Khổ thơ cuối, nhà thơ ước vọng một tình yêu bất tử vĩnh hằng.

– Những trải nghiệm cay đắng khiến Xuân Quỳnh sớm nhận ra và thấm thía sự hữu hạn của cuộc đời, của lòng người, nhưng khác với người đàn ông trong Xuân Diệu luôn khát khao chiếm lĩnh và tận hưởng, trái tim người phụ nữ trong Xuân Quỳnh lại có một mong ước đầy nữ tính:

– Câu thơ “Làm sao được tan ra…” mang cấu trúc nghi vấn – cầu khiến cho thấy cả nỗi trăn trở và niềm mong ước của người phụ nữ thật da diết và thành thực. “Tan ra” là hy sinh, là dâng hiến, là mong được hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu”; mong ước được hi sinh và dâng hiến cũng là mong được sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu. Khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành, táo bạo và cũng thật nhân hậu, vị tha. Hai câu cuối mở ra cảm giác mênh mang của không gian “biển lớn” cùng sự vĩnh hằng của thời gian “ngàn năm”. Khi sống hết mình, yêu hết mình, để tình yêu lớn lao tới mức tan hòa trong cái vô biên của trời đất thì lúc ấy tình yêu cũng đồng thời được nhập vào dòng thời gian vĩnh hằng, tình yêu sẽ trường tồn cùng năm tháng, cùng đất trời, vũ trụ. Vậy là, con người sẽ làm được điều kì diệu, sẽ chiến thắng được cái hữu hạn của cả thời gian và không gian, sẽ vĩnh viễn hóa tình yêu ngay trong cái ngắn ngủi, thoáng chốc của cuộc đời nếu họ dâng hiến và hy sinh trọn vẹn cho tình yêu. Đó cũng là tâm nguyện cao đẹp thường xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh:

(Tự hát)

– Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những “Cuộc chia ly màu đỏ”. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu là biết hy sinh quên mình để hòa cùng tình yêu cộng đồng, tình yêu quê hương, tổ quốc. Đây là lẽ sống đẹp về quan niệm tình yêu, tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ qua bài thơ “Sóng” mãi mãi là sức sống, giá trị cho thi phẩm.

III. Kết bài

– Về nghệ thuật: Với thể thơ năm chữ (ngũ ngôn) giàu tính tự sự, giàu sức biểu cảm, giàu tính triết lý, giàu chất suy tưởng, kết hợp những biện pháp tu từ đặc sắc (nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ…).

– Về nội dung: Đoạn thơ thể hiện ước vọng một tình yêu thật đẹp, thật mới mẻ trong tâm hồn lại thêm quan niệm người phụ nữ khi đã yêu. Ngoài tình yêu riêng, mang vẻ đẹp truyền thống lại thêm một ước vọng, một tình yêu bất tử, vĩnh hằng là lẽ sống đẹp, vẻ đẹp của tình yêu chung trong tâm hồn người phụ nữ. Phải chăng, tình yêu là sự kết hợp giữa cái riêng và cái chung giữa bản thân và cộng đồng, quê hương và đất nước mãi mãi là tình yêu bất tử vĩnh hằng.

1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (cũ). Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh. Đặc biệt ba khổ thơ cuối của bài thơ là 2 khổ thơ hay nhất nói về những trăn trở của Xuân Quỳnh về tình yêu và kats vọng hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhẫn loại để bất tử hóa tình yêu.

2. Thân bài:

a. Về nội dung

– Khổ 8: Suy tư về thời gian: Cụm từ ” tuy dài thế”,” vẫn đi qua”,” dẫu rộng ” như chứa đựng ở đó ít nhiều nỗi lo âu và sự ngậm ngùi của tác giả. Cuộc đời dài nhưng tuổi trẻ của con người là hữu hạn nên không ngăn nổi năm tháng vẫn đi qua. Gioongs như biển kia dẫu rộng cũng không ngăn nổi 1 đám mây bay về phía cuối chân trời. Nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian nên Xuân Quỳnh tiếc cho sự hữu hạn của đời người, sự mong manh của hạnh phúc.

– Yêu tha thiết, mãnh liệt trong tình yêu nhưng ta vẫn bắt gặp những dự cảm lo âu đầy bất trắc của thi sĩ. Dự cảm ấy phù hợp với nguồn cảm hứng thường xuất hiện trong thơ bà.

– Khổ 9: Không phải là sự lắp ghép, hòa nhập mà phải tan vào nhau ngàn năm nồng thắm, rạo rực.

Advertisement

Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao, cái riêng hòa nhập vào trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng tồn tại vĩnh hằng.

Nhưng đó chính là sự ao ước, khát khao, nhà thơ trăn trở kiếm tìm

b. Nghệ thuật đặc sắc:

– Hình ảnh biển và sóng quyện vào nhau trong cả ba khổ thơ, nhưng ở mỗi khổ thơ lại mang một sắc thái khác nhau.

Khổ 8: Mây tìm đến với biển từ nơi xa.

Khổ 9: Tình yêu tan trong tình yêu (tan thành trăm con sóng nhỏ).

– Vần điệu tạo nên một giọng thơ vừa sôi nổi, vừa thiết tha diễn tả rất hay tâm trạng của một tâm hồn đang khát khao, tìm kiếm.

– Đánh giá: Xuân Quỳnh đã xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ về tình yêu. Sóng gửi gắm trong đó những suy tư ít nhiều thấp thoáng sự phấp phỏng, lo âu về sự ngắn ngủi của đời người, sự mong manh của hạnh phúc. Cũng bởi thế, bà mông hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhân loại để tình yêu ấy mãi mãi được bất tử. Đó cũng là sự hiện đại trong quan niệm tình yêu của bài thơ ” Sóng “

3. Kết bài:

– Khẳng định giá trị của 2 khổ thơ trong toàn bộ bài thơ

– Khẳng định tài năng của tác giả.

1. Mở bài

Nữ sĩ Xuân Quỳnh dành cho tình yêu một khoảng trời yêu thương lớn lao, để khi viết về nó, mỗi chữ, mỗi lời từ cây bút ấy đều khiến người đọc rung động, và “Sóng” là một bài thơ như thế.

2. Thân bài

– Thời gian vẫn vậy, vẫn luôn khiến lòng người khắc khoải một nỗi lo, một nỗi sợ vấn vương.

– Cuộc đời tuy có dài, có rộng đó thôi, nhưng làm sao dài rộng như thời gian cơ chứ.

– Biển có rộng, có dạt dào sự bao dung, có ngày đêm vỗ sóng đợi chờ tình yêu thì mây kia vẫn bay đi, bay về những chân trời xa lắm, nơi đó chắc gì đã có biển, đã có sóng, có ” em”.

– Tác giả lo âu, nghĩ suy nhưng không vì thế mà ngừng yêu, ngừng nhớ. Trái tim vẫn đập mãnh liệt khi yêu và được yêu, vẫn muốn sống hết mình cho tình yêu của hôm nay, của hiện tại.

– Tác giả ước làm sao để có thể tan thành từng con sóng, từng con sóng ngày đêm vỗ về hạnh phúc tình yêu.

– Bởi thế mà trăm con sóng ngày đêm vỗ về nơi biển lớn của tình yêu ấy là trăm con sóng lòng xốn xang, dâng trào.

3. Kết bài

Qua bài thơ, Xuân Quỳnh đã nói lên tâm sự của bao người trong đó, đặc biệt là những thế hệ trẻ hôm nay.

Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam (Dàn Ý + 23 Mẫu) Phân Tích 2 Đứa Trẻ

Phân tích bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam tuyển chọn 23 mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Thông qua phân tích 2 đứa trẻ cuộc sống của người lao động nơi phố huyện nghèo dần dần được hiện ra trong con mắt ngây thơ của Liên.

I. Mở bài:

Đôi nét về Thạch Lam: Một trong những cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn, ông có thế mạnh về viết truyện ngắn. Văn chương Thạch Lam rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn phù hợp cho nhận định trên

II. Thân bài:

1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:

Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên

Âm thanh: + Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.

Hình ảnh, màu sắc: + “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.

Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Nhịp điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu

⇒ Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

– Cảnh chợ tàn:

Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.

Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

– Con người:

Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.

Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.

Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.

Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.

Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

⇒ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.

c. Tâm trạng của Liên

– Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.

– Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.

Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

2. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

– Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:

“Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.

“Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

⇒ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…⇒ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.

Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau

⇒ Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé ⇒ kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b. Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:

– Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

Chị Tí dọn hàng nước

Bác Siêu hàng phở thổi lửa.

Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”

+ Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

⇒ Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.

Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào.

Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ” ⇒ mơ hồ, tội nghiệp

⇒ Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.

3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

– Liên và An thức bởi:

Để bán hàng

Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

– Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”

Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

– Khi tàu đến:

Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.

Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

– Khi tàu đi vào đêm tối:

Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.

Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

⇒ Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước

III. Kết bài:

Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của truyện ngắn

Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạch Lam: kết hợp hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị mà thâm trầm.

……………

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.

Nhưng Thạch Lam – người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu.

Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát, không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ờ tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng, nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: Văn chương không phải là một cách để thoát li hay lãng quên, mà trái lại, văn chương “phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”, là tiếng kêu thương thoát ra những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.

Cùng với những cây bút lớn chuyên viết về đề tài hiện thực đất nước trước năm 1945 như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Kim Lân, Vũ Trọng Phụng,… thì Thạch Lam cũng là một trong những ngòi bút xuất sắc và tiêu biểu nhất khi viết về đề tài này. Thạch Lam đã đặt riêng cho mình một tuyên ngôn rất thú vị khi làm nghề văn chương rằng: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Và bản thân nhà văn cũng tự chọn cho mình một lối đi rất riêng khi viết về số phận những con người trước cách mạng, với lối viết truyện nhưng không cần cốt truyện, ông chọn cho mình cách viết tỉ mẩn, tinh tế, thể hiện tài năng mà óc quan sát, cảm nhận sâu sắc. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, lãng mạn, nhưng ẩn chứa trong đó là những nỗi buồn man mác, lẩn khuất trong từng câu văn, Thạch Lam đã đem đến cho chúng ta bức tranh cuộc sống của những con người nhỏ bé, không ai nhớ mặt đặt tên, trong cái sự nghèo đói, khốn khổ và tăm tối nơi tỉnh lẻ. Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Thạch Lam khi viết về cuộc đời của những tiểu tư sản dưới số phận của những kiếp người tàn, nhưng ở họ vẫn luôn tồn tại một niềm hy vọng, một khát khao được thoát khỏi cuộc sống bế tắc ấy, để trông mong vào một cái gì đó tốt đẹp hơn.

Tuổi thơ của Thạch Lam là một tuổi thơ vất vả và cơ cực, bố ông là một trí thức tiểu tư sản, nhưng vì thời thế xã hội thay đổi thế nên ông mất việc, dẫn tới cả gia đình Thạch Lam phải chuyển từ thủ đô Hà Nội phồn hoa về quê ngoại ấy là thị trấn Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ đó hai chị em ông phải sống trong cảnh cơ cực, sớm bước vào đời vì cuộc sống mưu sinh ở đây, có lẽ chính vì thế mà nơi phố huyện này đã trở đi trở lại rất nhiều lần trong các tác phẩm của Thạch Lam. Đặc biệt trong Hai đứa trẻ những ấn tượng về một phố huyện tăm tối, nghèo nàn, yên ắng với những kiếp người tàn, và cả hình bóng người chị tên Liên đã để lại trong lòng độc giả nhiều xúc cảm không thôi.

Bức tranh phố huyện trong tác phẩm hiện lên trải dài trong khoảng thời gian từ chập tối đến tận giữa đêm, trong đó người ta vẫn ấn tượng nhất vẫn là cái cách mà Thạch Lam miêu tả về phố huyện lúc chiều tàn nơi tỉnh lẻ, lãng mạn, nên thơ và mang trong mình một nỗi buồn man mác. Bức tranh thiên nhiên được ở đầu bằng tiếng trống thu không “từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”, chậm rãi, kéo dài, uể oải, như nhấn sâu vào lòng người, bên cạnh đó là những tiếng “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng”, tiếng “muỗi bắt đầu vo ve” và cả tiếng chõng tre kêu cót két. Như vậy có thể thấy rằng buổi chiều nơi phố huyện là sự hiện diện của những kiểu âm thanh thưa thớt, chậm rãi, rời rạc, mang đến cảm tưởng về một nơi phố huyện vừa nhỏ bé, ảm đạm, lại còn nghèo khó, tối tăm, và nặng u buồn, mệt mỏi. Thứ hai nữa, ta sẽ lại càng thấy rõ cảnh ngày tàn thông qua những gam màu mà Thạch Lam đã tinh tế đưa vào “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, đó là thứ màu đỏ, màu hồng rực rỡ. Những tưởng sẽ đem đến một cái gì đó tươi vui, thế nhưng trong Hai đứa trẻ, nó lại là những dấu hiệu rõ rệt của ngày tàn, là sự bừng lên rực rỡ của ánh mặt trời cuối cùng trong ngày, là cái ánh sáng duy nhất còn sót lại trước khi màn đêm buông xuống. Hình ảnh hoàng hôn ấy tuy đẹp, tuy lãng mạn như một bức tranh của người nghệ sĩ đa tài nhưng lại nhuốm những màu buồn man mác về sự kết thúc, để vào hồn người sự tiếc nuối xa xăm. Và người ta có lẽ càng ấn tượng hơn với đường nét ngày tàn mà Thạch Lam đã vẽ ra đó là “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Một hình ảnh khiến độc giả nhận thức rõ rệt được cái giây phút chuyển giao giữa ngày và đêm khi mà trên cái nền trời xanh thẳm còn hơi sang sáng bởi ánh mặt trời chưa tắt hẳn lại in trên đó bóng lũy tre già sắc nét, tựa như một bức tranh thủy mặc ảm đạm, yên ắng vô cùng. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên chính là sự hiện diện của những kiếp người tàn khi bóng chiều buông, ở đó người ta chỉ thấy sự uể oải chán nản, cùng những chuyển động chậm rãi và lặng lẽ. Đó là hình ảnh một buổi chợ tàn, đã tắt đi những tiếng huyên náo thay vào đó là cảnh “trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”, cùng với cảnh tượng mấy đứa trẻ con bé xíu, tội nghiệp đang cố sức nhạy nhảnh, bới tìm trong đống rác bẩn thỉu cốt để tìm được thứ gì đó còn dùng được. Hình ảnh ấy khiến người ta không khỏi xót xa trước những số phận tàn tạ, bất hạnh trước cái nghèo đói xơ xác và ảm đạm nơi phố huyện. Và còn cả cái mùi “âm ẩm bốc lên…” cũng gợi ra một cách sâu sắc sự ẩm thấp, bẩn thỉu, chán chường nơi tỉnh lẻ nghèo khó và tăm tối này. Đi cùng với cảnh ngày tàn, chợ tàn chính là sự xuất hiện của những kiếp người tàn, những đứa bé nghèo khổ, tội nghiệp nhặt nhạnh rác rưởi ở ven chợ, phải lao vào công cuộc mưu sinh khi còn quá nhỏ, mẹ con chị Tí với cuộc sống mưu sinh vất vả ngày mò cua bắt ốc, đêm lại bán hàng Đêm lại bán hàng rong, với số khách lưa thưa, ít ỏi, sống cuộc đời lay lắt, ảm đạm. Rồi hình ảnh bà cụ Thi điên, nghiện rượu với tràng cười ghê rợn ám ảnh, khiến người ta dễ liên tưởng đến cuộc đời đầy sóng gió đau thương của người phụ nữ khốn khổ này. Và cuối cùng chính là hình ảnh chị em Liên, hai đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, nhưng cũng phải sớm tìm đường mưu sinh chôn vùi cuộc đời bên cái quán tạp hóa sập xệ, trên cái chõng tre mục nát, ẩn sau hai chị em Liên chính là sự xuất hiện thoáng qua của người mẹ, một người đàn bà tần tảo lam lũ, làm công việc buôn hàng xáo đầy vất vả. Tất cả những kiếp người ấy đều cho ta chung một cảm nhận về cái nghèo đói, ảm đạm, chán chường và thiếu sức sống nơi phố huyện, khiến người ta thấy một cái gì đó tối tăm và bế tắc vô cùng.

Và trong những kiếp người tàn, Thạch Lam đã chọn Liên làm nhân vật chính, một cô bé tầm 9 10 tuổi đầu, nhưng có lẽ vì sống trong nghèo khổ và công việc mưu sinh từ tấm bé, thành thử ra ở chị luôn có sự trưởng thành trước tuổi và đặc biệt là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thương con người vô cùng ấn tượng. Sự nhạy cảm tinh tế của Liên đã hiện lên từ những dòng đầu của tác phẩm với cái hình ảnh “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”, cái cách chị nhìn nhận về cảnh chiều tàn nơi phố huyện khiến chị trở nên khác biệt. Bởi lẽ rằng với một đứa bé 9 10 tuổi, thì nỗi buồn, nỗi ảm đạm của quê hương có lẽ là một cái gì đó mơ hồ lắm, thậm chí có khi còn chẳng nhận ra được, nhưng Liên thì khác chị suy tư và thấm thía cái nỗi buồn của thiên nhiên, để nó thấm đẫm vào tâm hồn mình, để lại trong tâm hồn non nớt của chi những nỗi niềm suy tư man mác. Sự tinh tế, nhạy cảm của Liên còn thể hiện ở cảm nhận của chị về cái mùi riêng của đất quê hương “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Đó rõ ràng không phải là một mùi gì thơm tho dễ chịu gì cho cam, mà lại là một cái mùi ngai ngái, âm ẩm xộc thẳng vào mũi khiến người ta khó chịu, bức bối. Nhưng đối với Liên, thì đó lại là mùi đặc trưng của của quê hương, mà chị cảm thấy thân thiết, yêu thương và gắn bó vô cùng. Không chỉ tinh tế ở cảm nhận và sự tinh tế nhạy cảm của Liên còn thể hiện trong cái cách chị quan tâm và yêu thương người khác, đối với mẹ con chị Tí là ánh nhìn thương cảm, xót xa, đối với bà cụ Thi điên là sự ái ngại, cảm thông cho một kiếp người tàn lụi, đối với mấy đứa trẻ ven xóm chợ là sự tội nghiệp, thương xót nhưng bản thân chị cũng bất lực vì không thể giúp gì được cho chúng, bởi chính cuộc đời chị cũng nghèo khổ và tăm tối.

Bức tranh phố huyện lúc đêm xuống không có nhiều điểm nhấn như cảnh ngày tàn, thế nhưng nó vẫn mang và truyền tải được một cách trọn vẹn sâu sắc cái sự ảm đạm, tối tăm và u buồn của nơi tỉnh lẻ. Điều ấy bắt đầu đến từ cách mà Thạch Lam miêu tả bóng đêm, mà có lẽ người ta chẳng thấy cái bóng đêm nào nó vừa đen đặc lại vô tận đến thế “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Dĩ nhiên ánh sáng cũng xuất hiện, thế nhưng dường như nó chỉ làm cho bức tranh bóng tối ở nơi đây thêm rõ nét, bởi dương như sự hiện diện của những “khe sáng, “hột sáng” thoát ra từ vách nhà, hay cái “quầng sáng” tù mù lay động từ cái ngọn đèn dầu con con của chị Tí, cùng với cái ánh lửa dẫu chiếu sáng cả một vùng đất cát nhưng nhạt nhòa và mờ nhạt của bác Siêu, đều chẳng thể làm thay đổi được cái tối tăm vô tận này. Thay vào đó những nguồn sáng yếu ớt ấy dường như bị bóng đêm khỏa lấp, nuốt trọn, khiến không gian càng trở nên ảm đạm và chán chường hơn, càng khiến người ta cảm tưởng về những cuộc đời đang leo lét như thứ ánh sáng tu mù đang hiện lên trong đêm tối, chẳng đủ để soi sáng con đường đời. Giữa cái bóng đêm mịt mùng, người ta thấy hiện lên những kiếp người tàn, hình ảnh vợ chồng bác Xẩm với tiếng đàn bầu bần bật, thiểu não, đứa con nhỏ bò cả ra đất nghịch những rác rưởi bẩn thỉu, thấy mà xót xa. Mẹ con chị Tí chán chường phẩy ruồi bên gánh hàng nước, ế ẩm và ảm đạm. Gánh phở bác Siêu nghi ngút khói, nhưng cũng ế khác, bởi đó là thứ quà sang, không hề hợp với nơi phố thị nghèo nàn. Còn chị em Liên từ sáng đến tối muộn mãi chôn chân trên cái chõng tre mục nát, không được sống một cuộc đời vui chơi thoải mái như bao đứa trẻ khác mà đã sớm phải tất bật mưu sinh vì mấy đồng tiền lẻ khi bán được bánh xà phòng, cút rượu bé tí,… Nhưng có một điều thú vị rằng trong cái không gian tăm tối, bi ai ấy chí ít người ta vẫn còn thấy được sự hiện diện của ánh sáng trong tâm hồn con người khi “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”, đó là mong ước là hy vọng về một cuộc đời tươi sáng tốt đẹp hơn, là ước mơ thoát ra khỏi cái ảnh bế tắc, tối tăm dẫu rằng nó còn rất mơ hồ và xa xăm.

Sau bức tranh phố huyện ở hai thời điểm chiều tàn và đêm tối thì sự xuất hiện của đoàn tàu đêm đã đem đến cho phố huyện một viễn ảnh khác hẳn, là điểm nhấn thể hiện những giá trị tư tưởng mà Thạch Lam muốn truyền tải. Có lẽ người ta thấy ấn tượng với cái cảnh những con người nơi phố huyện cố nén mệt mỏi để trông mong chuyến tàu đêm, chuyến tàu mỗi ngày đều có một lần. Thế nhưng có ai biết rằng chuyến tàu ấy vô cùng có ý nghĩa với những con người nơi đây bởi “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”, mang một cái gì đó khác lắm, có lẽ là ánh sáng, sự phấn khởi, là tượng trưng cho niềm hy vọng le lói trong trái tim mỗi con người. Thế nên khi có những dấu hiệu đầu tiền của đoàn tàu bác Siêu đã nhanh nhạy reo lên một cách sung sướng: “Kìa đèn ghi đã ra kia rồi” để thức tỉnh mọi người, đoàn tàu xuất hiện phía xa xa với hình ảnh “một làn khói trắng bừng sáng lên từ đằng xa”. Chị em Liên đều đứng dậy khỏi chõng để kịp chiêm ngưỡng dáng vẻ của con tàu, với niềm háo hức và say mê khôn cùng, mà đối với An nó như một món đồ chơi, còn đối với Liên thì đoàn tàu đã mang về cho chị những ký ức xa xăm tươi đẹp khi còn ở thủ đô. Đoàn tàu xuất hiện với những âm thanh vang dội, mạnh mẽ “tiếng dồn dập, rít mạnh vào ghi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới” khác hẳn với những âm thanh yếu ớt, chậm rãi và thiểu não nơi phố huyện. Thứ ánh sáng mà đoàn tàu mang tới cũng khác hẳn “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” đối lập hoàn toàn với thứ ánh sáng từ mù từng hột, từng vệt, nhạt nhòa nơi phố huyện. Thêm vào đó nhưng chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát của con tàu cũng đem đến một không khí khác hẳn, rộn ràng náo nhiệt “tàu rầm rộ đi tới”, “đoàn xe vụt qua” làm lu mờ đi cái chuyển động khe khẽ, từ từ, rời rạc của nơi tỉnh lẻ tối tăm, bế tắc. Đoàn tàu ấy từ Hà Nội về, nó đã mang đến cho Liên những cảm xúc khó tả, bởi đoàn tàu là biểu trưng của sự sung túc giàu có, làm chị nhớ về những ngày mình còn ở Hà Nội, thầy còn nhiều tiền, được hưởng cuộc sống ấm êm, được nếm những thức quà ngon, được thỏa sức vui chơi, là thế giới mà Liên và cả những con người nơi đây đều khát khao mơ tưởng. Thế nhưng khi đoàn tàu đi qua, phố huyện lại trở lại với vẻ ban đầu của nó, thậm chí còn tối tăm và chán nản hơn, bởi người ta không còn gì để mong chờ nữa, một ngày dài đã thật sự kết thúc, người tản đi, yên ắng đến vô cùng, chỉ còn tiếng chó sủa giữa đêm khuya.

Có thế mới thấy được rằng, đọc văn Thạch Lam mới đầu tác giả chỉ viết khơi khơi, kể về những điều quá đỗi vụn vặt, nhỏ bé và tầm thường, thế nhưng đến khi đọc đến những dòng chữ cuối cùng ta mới thấm thía được cái dụng ý của nhà văn. Cái đẹp len lỏi khắp hang cùng ngõ tận, mà điều ông làm chính là khai thác nó để cho mọi người cùng được chiêm ngưỡng, nó lại giống như việc ông vẽ ra vẻ đẹp của cảnh ngày tàn, phác họa tâm hồn tinh tế và nhạy cảm của Liên và đi kèm theo đó là những giá trị nhân sinh vô cùng sâu sắc, để mọi độc giả đều phải suy ngẫm.

Thạch Lam là cây bút nhẹ nhàng, sâu lắng trong nhóm Tự lực văn đoàn, một phong cách không thể lẫn lộn với bất cứ ai. Mỗi trang văn của ông là những lời thủ thỉ tâm tình cuốn hút người đọc. Đó là những câu chuyện không có cốt truyện được viết lên bởi chất liệu nhẹ nhàng, man mác, tiêu biểu là tác phẩm Hai đứa trẻ.

Sự tinh tế, nhẹ nhàng trong những câu văn làm nên nét độc đáo của Thạch Lam. Câu chuyện Hai đứa trẻ xoay quanh cuộc sống của Liên và An ở phố huyện nghèo với công việc lặp đi lặp lại hằng ngày. Qua Liên và An, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Ẩn hiện trong truyện ngắn là khung cảnh phố huyện nghèo. Mở đầu là tiếng trống thu không vang lên trong buổi chiều tà, khi cảnh vật và con người đang đắm mình vào không gian lơ đãng. Tại sao Thạch Lam chọn buổi chiều tà mùa thu để vẽ lên bức tranh phố huyện? Phải chăng mùa thu gợi buồn, gợi nhớ, gợi cho con người ta nhiều cảm xúc. Khu phố nghèo lúc ngày tàn gợi sự đìu hiu, tàn phai trước mắt người đọc, đó cũng chính là hiện thực xã hội thời bấy giờ ở nước ta, mọi thứ không có sức thu hút và dường như không thấy có sự sống, mọi thứ gần gũi nhưng phảng phất sự nghèo đói.

Trong con mắt của Liên và An, phố huyện hiện lên xơ xác, nghèo đói trước cảnh bãi chợ vắng vẻ, khi người về hết. Ống kính của Thạch Lam lia qua những rác rưởi khi chợ quê vãn người và miêu tả một mùi vị đặc trưng riêng khiến hai đứa trẻ tưởng là mùi riêng của đất, của vùng quê này. Cứ thế, phố huyện ám ảnh hai đứa trẻ, ám ảnh bạn đọc bởi những hình ảnh, màu sắc và hương vị như thế suốt bao năm qua.

Những đứa trẻ nghèo khổ hiện ra trong khung cảnh tiêu điều, xác xơ thêm nhếch nhác. Chúng đi nhặt những thứ rơi vãi còn sót lại. Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ống, tối tối xác điếu đóm dọn hàng, gia đình bác Xẩm ngồi bên manh chiếu rách với chiếc thau sắt trắng để trước mặt, bà cụ Thi điên uống rượu rồi cười khanh khách đi vào trong bóng tối… Từng ấy những kiếp sống lầm than, tàn tạ có cả chị em Liên. Trong con mắt của Liên, cuộc sống chìm trong màn đêm mênh mông không lối thoát, chỉ có ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, rồi ngọn đèn hoa kỳ vặn nhỏ….

Phố huyện lúc chiều tà tựa như khúc nhạc buồn điệp đi điệp lại chẳng biết bao giờ chấm dứt, đơn điệu và buồn tẻ. Liên và An làm sao có thể ý thức được sự buồn chán, bế tắc mà bọn trẻ đang phải sống cũng như những khát vọng mơ hồ của mình về cảnh tù đọng nơi đây. Nhưng với sự nhảy cảm, bé Liên cảm nhận được khát vọng tinh thần của chính mình, khát vọng thoát khỏi cảnh tối tăm, tù đọng mà tới một thế giới khác. Minh chứng cho khao khát này là hành động thực đợi chuyến tàu đêm đi qua. Con tàu đi ngang qua phố huyện như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với thế giới hai đứa trẻ đang sống, cũng là ánh sáng nhưng không phải là vầng sáng của ngọn đèn chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu.

Thạch Lam không đi sâu miêu tả xung đột xã hội, ông là một nhà văn lãng mạn vì thế một bức tranh phố huyện nghèo, dung dị tới từng chi tiết. Một bức tranh làng quê Việt Nam mù xám với những người lao động nghèo khổ đang phải sống quanh quản trong tối tăm, bế tắc. Nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thương chân thành tới những phần người ấy, muốn thay đổi cảnh nghèo khổ, tối tăm cho những con người ấy.

Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương, ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ vừa bộc lộ thái độ đồng cảnh, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quẩn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những câu văn êm dịu, với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đây là một trong nhiều bằng chứng ở tác phẩm này cho thấy: “Văn của Thạch Lam thường hiếm khi thừa lời, thừa chữ, không uốn éo làm duyên một cách cầu kì kiểu cách, nhưng vừa giàu hình ảnh và nhạc điệu, lại vừa uyển chuyển, tinh tế (Vũ Ngọc Phan). Nó không những cho người đọc nhìn thấy cảnh vật mà điều quan trọng hơn là khơi gợi ở họ tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật lại phần nhiều đều rất gần gũi, bình dị và mang cốt cách Việt Nam.

Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ. Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau để trước mặt, “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.

Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong các bên đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, “cụ đi lần vào bóng tối”. Chị em Liên phải thức để trông “một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng “bán chẳng ăn thua gì”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để mà cho chúng nó”.

Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi “được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ” không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế nhưng, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lọi của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”…

Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua lời văn và những chi tiết dường như rất khách quan.

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra, “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi, nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ, lam lũ sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội thực dân nửa phong kiến? Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt.

Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác Xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, “cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạo ra thăm hàng một lần”…

Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ đến một số câu thơ trong bài Quẩn quanh của Huy Cận:

Hãy nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của những nhân vật như Quỳnh và Giao trong thiên truyện ý tưởng Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu. Tuy thế, những người dân phố huyện vẫn hy vọng cho dù hy vọng đó rất mơ hồ: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Chính sự mong đợi mơ hồ này dường như càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người: dựng cảnh và cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường “truyện không có chuyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy.

Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian. Gam màu chủ đạo của khung cảnh là màu đỏ như lửa cháy: “Phương tây đỏ rực như cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn” . Những sắc màu này thường gợi lên sức sống, sự ấm nóng như với bức tranh của Thạch Lam lại chỉ gợi lên sự lụi tàn, mặt trời sắp lặn, những đám mây cũng như hòn than sắp tàn. Sự ảm đạm, buồn rầu bao trùm lên cảnh vật khi bóng chiều dần buông.

Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn,… những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên. Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.

Liên là một cô gái mới lớn, tinh tế và nhạy cảm, trong khoảnh khắc của ngày tàn đã nhanh chóng nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên. Em cảm nhận thấy mùi vị của quê hương trong phiên chợ đã tàn: “một mùi ẩm mốc bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…” ấy là mùi vị đã thấm sâu trong tâm hồn em, tâm hồn của một người gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương.

Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn. Liên sửa soạn, vội vàng “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại” và nhẩm tính những món hàng đã bán được trong ngày. Rồi lần lượt chị Tí, bác xẩm, gánh phở bác Siêu xuất hiện. Chị Tí dọn hàng nước chờ đợi những khách hàng quá quen thuộc đi qua vào uống chén trà. Gánh phở bác Siêu lại là món ăn xa xỉ với người dân phố huyện, bởi vậy lúc nào cũng vắng khách. Bác xẩm gảy lên “mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” thu nhập chẳng đáng là bao. Hình ảnh cụ Thi điên có lẽ đã gây biết bao ám ảnh với người đọc, cụ triền miên trong cơn say, bước đi lảo đảo, dường như cụ tìm đến với hơi men để lãng quên thực tại cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, để quên đi những nỗi đau của thực tế. Những người dân phố huyện vẫn gắng gượng sống qua ngày, họ sống cuộc đời mòn mỏi, mà chưa thể tìm ra lối thoát cho chính mình. Họ cũng mang trong mình mơ ước “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn…” nhưng đó chỉ là mơ ước mơ hồ, chập chờn, vu vơ, không có đích đến. Nhưng ước mơ đổi đời của những người dân phố huyện cũng được tác giả nâng niu, trân trọng.

Trong khoảnh khắc của ngày tàn, khi bóng tối đã ngập đầy mọi nơi, Thạch Lam một cách rất tinh tế đã tìm ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, đầy lãng mạn của cảnh vật thông qua những cảm nhận nhạy bén của nhân vật Liên. Cô bé thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh, tưởng tượng đó là dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân thần nông. “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ…” Liên quả là người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, khi “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối” em vẫn tìm thấy những nguồn sáng khác nhau từ thiên nhiên, cảm nhận cái rơi thật khẽ, thật êm của hoa bàng rụng. Liên tìm đến ánh sáng không phải là một điều ngẫu nhiên, ánh sáng ấy chính là mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn của Liên. Em tìm nguồn sáng sáng xua tan đi bóng tối: khe sáng, hột sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng nhỏ bé, mong manh, yếu ớt, không đủ để xua đi bóng đêm. Đây đồng thời cũng là khao khát đổi đời để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của thực tại.

Nhưng có lẽ đẹp nhất, rực rỡ nhất chính là khoảnh khắc khi đoàn tàu vụt qua phố huyện nghèo. Không ai ngủ, không ai về trước khi đoàn tàu đi qua, ai cũng cố thức để chờ đoàn tàu đến, không phải là để cố gắng bán thêm được thứ gì, vì hầu như không có ai mua, mà là bởi để thấy được chút ánh sáng của sự sống, của niềm tin, hy vọng. Cũng bởi vậy mà, mặc dù đã buồn ngủ nhưng An vẫn cố nhắc chị khi nào đoàn tàu đến hãy gọi em dậy, trong mong manh vô thức, An cũng có khao khát đổi đời như tất cả người dân nơi đây. Khi đoàn tàu xuất hiện, tiếng reo lên đầy vui sướng: “đèn ghi đã ra kia rồi”, hồi còi tàu hỏa kéo dài, làn khói sáng trắng xuất hiện từ phía xa. Đoàn tàu vụt qua mang đến biết bao âm thanh: “tiếng xe rít mạnh vào ghi” , “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên”, đó là sự náo nhiệt, ồn ã, đông vui trái ngược hẳn với sự tĩnh lặng của phố huyện. Trên các toa tàu sáng rực “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh” nó gắn liền với cuộc sống sang trọng, giàu có trong phút chốc xua đi bóng tối, sự ảm đạm của cuộc sống nơi đây. Đoàn tàu đi qua, người ta vẫn cố nhìn theo đóm lửa xanh cho đến khi nó mất hẳn. Nếu đoàn tàu đi qua mang lại ánh sáng rực rỡ như sao băng thì giờ đây ở phố huyện chỉ còn lại vầng sáng nhỏ bé, leo lét, đêm tối lại bao bọc xung quanh. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ, của Hà Nội, gợi về một thế giới thần tiên mà hai đứa trẻ từng được trải nghiệm, là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà hai đứa trẻ cũng như tất cả người dân phố huyện đang khao khát.

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ.

Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống.

Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo.

Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng.

“Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương dây cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện.

Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”.

Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc.

Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dày đặc mà thôi.

“Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi là Nguyễn Tường Lân, ông là em trai của hai nhà văn nổi tiếng là Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long). Sinh ra ở huyện Cẩm Giàng_Hải Dương (quê mẹ), lớn lên học Trung học ở Hà Nội sau bỏ học đi làm báo, viết văn. Tác phẩm của ông để lại không nhiều nhưng mỗi một sáng tác là một thành công riêng. Ông được người đời đánh giá là “Cây bút có biệt tài về truyện ngắn”. Tiêu biểu là tác phẩm “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” thể hiện tài năng về truyện ngắn là truyện không có cốt truyện, chủ yếu đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật và minh chứng cho văn phòng riêng biệt, độc đáo của Thạch Lam là giản dị, trong sáng mà thâm trầm sâu sắc.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” bên cạnh việc miêu tả không gian cảnh vật bên ngoài và những cảnh người dường như không có gì nổi bật đáng chú ý, nhưng đi vào nơi bên trong sâu lắng của tâm hồn mới phát hiện ra những điều tinh tế gợi lên biết bao nỗi xót xa, thương cảm cho những kiếp người nghèo khổ và trân trọng cho ước mơ của họ. Truyện kể về hai nhân vật chính Liên và An, hai chị em từng sống ở Hà Nội huyên náo khi cha bị mất việc gia đình phải chuyển về phố huyện nghèo mưu sinh, hai đứa nhỏ được mẹ giao cho công việc trông coi cửa hàng tạp hóa bé xíu để kiếm thêm thu nhập. Tất cảnh cảnh vật và con người nơi đây trong từng khoảng thời gian từ chiều tàn cho đến đêm khuya được Liên thu vào trong tầm mắt và cảm nhận thật tinh tế.

Cảnh vật bên ngoài được Thạch Lam miêu tả qua cái nhìn của Liên có khi đứng từ xa quan sát bao trùm lên tất cả, khi thì lại cận cảnh từng chi tiết nhỏ bé. Khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận cả hai chiều về không gian và thời gian. Mở đầu là buổi chiều tà hoàng hôn buông xuống, bóng tối dần bao phủ. Khung cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện lên những kiếp người tàn tạ. Bức tranh thiên thiên nhiên về chiều mở đầu là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ”_ âm thanh đầu tiên báo hiệu kết thúc một ngày, chuẩn bị cho thời khắc lúc về đêm. Nói là phố huyện nhưng là cái huyện nhỏ xíu, tiêu điều. Hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi nho nhỏ lẩn vào trong dãy tre làng đang đen lại vào lúc trời tây rực đỏ như hòn than sắp tàn, chen lẫn là tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve trong màn đêm tối. Điều đó khiến cho Liên – cô gái có tâm hồn nhạy cảm “bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thía vào tâm hồn” khi ngồi bên cạnh “Những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy bóng tối”. Đoạn văn mở đầu của Thạch Lam êm du, dịu nhẹ vừa giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu và uyển chuyển, tinh tế như bản nhạc tình ca gợi ra cuộc sống vừa bình yên lại vừa hoang tàn và nghèo nàn nơi thôn dã. Những con người ở huyện nhỏ hiện lên là những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những thứ gì còn dùng được sau buổi chợ chiều, từ láy “lom khom” được Thạch Lam sử dụng càng đậm tô sự cơ cực vất vả mà những đứa trẻ đáng lẽ phải được học hành vui chơi đang gánh chịu. Mẹ con chị Tí vẫn dắt díu nhau ngày này qua ngày khác với hai công việc đều đặn là mò cua bắt tép ban ngày tối đến trông chờ vào gánh nước chè dưới gốc bàng trong màn đêm. Hai chị em Liên với cái quán tạp hóa bán những thứ đồ lặt vặt. Ống kính quan sát của nhà văn lia đến cả những thứ rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá mía, lá nhãn trên nền đất có cả mùi của cát bụi và mùi ẩm mốc quyện vào nhau tạo thành mùi của quê hương nghèo khó. Thạch Lam có một tâm hồn thật tinh tế cảm nhận được từng chi tiết nhỏ cho thấy tấm lòng dào dạt của ông với quê hương.

Bức tranh phố huyện khi về đêm các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng yếu ớt ấy không thể xua tan đi màn đêm, không thể chiến thắng nổi bóng tối. Ánh sáng của nhà bác phở Mỹ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu và đèn dây sáng xanh trong nhà hiệu khách càng làm cho “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Xung quanh Liên bóng tối đang dần bao trùm. “Tối hết cả con đường thăm thẳm sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa”. Bác phở siêu lom khom nhóm lửa trong đêm khiến cho “bóng bác càng mênh mang ngả xuống một vùng và kéo đến tận đàng xa”. Gia đình nhà bác xẩm vẫn đang đợi giọt hạnh phúc rơi với cái thau còn trống trơ, thằng con thì bò ra đất. Liên và An đã dọn hàng xong, cô bé thả hồn mình với cảnh vật xung quanh, lắng mình quan sát “ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Tâm trạng của một cô bé nhạy cảm như vậy chẳng có gì là khó hiểu, trước cảnh vật hiu quạnh trách sao được lòng mình cũng buồn theo. Thạch Lam thật tinh tế khi đi sâu khai thác thế giới nội tâm của cô gái mới lớn.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.

Nhưng Thạch Lam – người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu.

Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát., không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mé ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Có một thời, lối “tư duy từ điển” đã làm bó tay không ít người nghiên cứu văn học Việt Nam, đẩy họ đến tình trạng loay hoay trong “cái rọ” của khái niệm. Dựa vào khái niệm, người ta khảo cứu văn chương như một thực thể bị chia cắt một cách siêu hình thành những dòng, những khuynh hướng khác nhau. Khi đem những tiêu chỉ của chủ nghĩa hiện thực phê phán quy chiếu vào văn học 1930 1945 sẽ dễ thấy nổi lên tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… còn nhiều sáng tác của Thanh Tịnh, Thạch Lam… Như bị lừa vào cái dòng lãng mạn (mà lãng mạn trong cái dân tộc lầm than thì không thể tha thứ!). Tuy nhiên, lịch sử bao giờ cũng mang tính khách quan của nó, “tư duy mới” đã gạt bỏ những hướng đi duy lý chủ quan, để tuy chậm, song chưa muộn, mấy năm gần đây Thạch Lam và một số “danh bút” của một thời văn chương được khẳng định trở lại.

Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn mà tri thức phương Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn “thuần Việt”. Sáng tác của ông trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn cảm, một nhân cách văn hóa, một người bạn của lớp người nghèo khổ ở thời đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chỉ khác với “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”… ở điển hình và tiếng nói riêng của tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.

Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý tới hai khu vực cơ bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú tồn tại ở “ranh giới mờ” giữa lối sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố huyện có thế được coi như trạm trung chuyển của sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai lối sống cơ bản của xã hội để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời của Thạch Lam (thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng xã và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội.

Dạo quanh bất kỳ một phố huyện nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh tồn, đặc điểm kinh tế… của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu được những nét lớn của xã hội, vì lẽ, mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước” tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống; bên những ưu điểm còn buộc nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ. Đã từ lâu, nhiều người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo kiểu văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để nhận chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhất trong xã hội lúc đó là những người nghèo.

“Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều về. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn trong lò. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”… Phố huyện lúc chiều tàn thật thanh bình, yên ả; cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con chị hàng nước lại dọn cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại chờ khách đến nghe…”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”… Thật ra, nhịp điệu sống không nhất thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội đù tươi đẹp vẫn có những ngày hè mưa buồn, những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự nhiên. Còn cái đêm u tịch được Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, những chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”… Dạng huống số nhiều của hành động chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phố huyện, nhàm chán nhưng vẫn lặp lại vì miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn thua gì”. “Cũng như mọi đêm Liên không còn trông mong còn ai đến mua nữa”, một cách kiếm sống hú họa, vật vờ.

Tác giả đồng điệu với Liên và những người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ không gian rộng đến sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con ngõ rộng dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Tối đến mức cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”. Vài ánh sáng len qua phên nứa, ngọn đèn con của chị hàng nước, cái bếp lửa của bác hàng phở trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến ngay cả âm thanh cũng chìm nghỉm trong đó: “Tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng”. “Trống cầm canh ở phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối”. Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất thực, thực bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”, “tâm hồn Liên yên tình hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người quanh Liên qua những mẩu đối thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những câu trả lời cũng đã quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.

Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh lặng đem lại cảm giác nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa”, “vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua thinh không phố vắng vào lúc chín giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác. Nó lướt qua phố huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó xa xăm. Nó là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy vọng. Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời gian và làm tăng nỗi đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.

Thạch Lam thực sự sáng tác chỉ trong khoảng 6 năm, và mất khi mới 32 tuổi. Tuy vậy, ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên đường hiện đại hoá, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn.

Nói đến những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, không thể không kể đến tác phẩm Hai đứa trẻ (rút trong tập Nắng trong vườn. NXB. Đời nay,1938). Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng” êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương. ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm thương xót đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ; vừa bộc lộ tình cảm gắn bó đối với quê hương đất nước.

Hai đứa trẻ có những nét rất tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn Thạch Lam: yếu tố lãng mạn xen lẫn yếu tố hiện thực, truyện mà không có truyện, câu tứ tựa hồ như một bài thơ….Tất cả thể hiện một tâm trạng mơ hồ bâng khuâng của hai chị em Liên và An khắc khoải chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua, trong không khí tẻ nhạt của phố huyện nghèo nàn, vào một buổi tối mùa hè yên ả.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết, chúng ta có ấn tượng về cuộc sống tàn tạ, tù túng của những kiếp người lam lũ quẩn quanh, sống không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều; phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như “hòn than sắp tàn”. Thì ra: cái rực rỡ huy hoàng của một ngày đã qua rồi; buổi chiều tà đang đến. Giờ này chợ cũng đã tàn. Cái lòng vui đã mất để lại sự trống vắng hiu quạnh. “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, chỉ còn lại mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại. Tất cả đều gợi nên “cái buồn của buổi chiều quê”.

Bên cạnh cảnh ngày tàn là những kiếp người tàn. Hàng nước chị Tí vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm nhưng chả kiếm được là bao nhiêu”. Bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng”. “Thằng con bò ra đất (…) nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ty, “cụ đi lần vào bóng tối”. Chị em Liên phải thức để “trông một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, dọn từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng bán chẳng ăn thua gì”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để cho chúng nó’. Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều đêm “được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là món quà xa xỉ không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế mà, có lẽ dẫu sao, gia đình Liên cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm….” Mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mòn mỏi….

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên nhà văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần chi tiết ngọn đèn của chị Tí. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh gây ấn tượng day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Phải chăng hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ lam lũ, sống vật vờ leo lét, trong màn đêm của xã hội cũ?

Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu uể oải. Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí “cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”; bác phở Siêu nhóm lửa, gia đình bác Xẩm chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục đi gợi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tính tiền hàng rồi cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần”….

Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối”, ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng”. Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ tới một số câu trong bài thơ Quẩn quanh của Huy Cận:

Tuy thế, họ vẫn hy vọng mơ hồ, “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ. Chính sự mong đợi mơ hồ này tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người, dựng cảnh và ở cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Hai Đứa Trẻ được Thạch Lam viết năm 1938, trích ra từ tập Nắng Trong Vườn. Tác phẩm kể về thời gian từ chiều đến đêm khuya nơi phố huyện, cảnh sinh hoạt của con người nơi đây. Tác giả đã đi sâu vào cảm xúc từng nhân vật, và cuộc sống, niềm hy vọng của họ.

Tác phẩm bắt đầu với âm thanh tiếng trống thu không, báo hiệu mặt trời đã về chiều. Bức tranh thiên nhiên thật lãng mạn, trữ tình, đậm chất làng quê Việt Nam. Mặt trời lúc này trong mắt tác giả như hòn than sắp tàn, không còn vai trò soi sáng cho không gian. Buổi chiều im ắng với “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Phố huyện tĩnh lặng đến mức có thể nghe được muỗi, ếch nhái kêu từ xa.

Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ để thấy bức tranh thiên nhiên Việt Nam buổi chiều hoàng hôn đẹp đẽ. Tuy nhiên những âm thanh trên không làm thêm sự rộn ràng nơi làng quê nghèo, vẫn thật buồn tẻ. Âm thanh nhỏ bé làm nổi bật hơn không gian yên tĩnh, đơn điệu nơi đây. Bức tranh thiên nhiên lúc chiều dưới ngòi bút của Thạch Lam là sự lụi tàn, tan tác, buồn tẻ. Như vậy, dưới cảnh chiều tàn buồn man mác, con người nơi đây cũng chưa thấy vui vẻ hơn. Chiều tàn, chợ tan, không còn tiếng ồn ào, trò chuyện của bất cứ ai. Tiếng trống gõ rồi thôi, không gian im ắng đến đáng sợ, làm con người thêm não nề.

Hoạt động sinh hoạt về chiều của người dân phố huyện cũng không mấy náo nhiệt. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Sau một ngày hoạt động, mọi thứ đọng lại chỉ còn lại những rác rưởi. Ngày tàn, chợ cũng tàn, những kiếp người nơi đây thật tàn tạ. Họ không có lấy một việc làm kiếm nhiều tiền để thay đổi cuộc sống, các gian hàng bán đều ế ẩm. Chiều về, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng đến lạ thường, nhưng rất đỗi quen thuộc.

Tuy nhiên, chợ tàn là lúc các đứa bé chưa có khả năng lao động tự kiếm ăn. Chúng “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chỉ là một đứa trẻ, nhưng chúng phải học cách sinh tồn, kiếm ăn, lượm bất cứ gì sử dụng được.

Thông qua việc Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ, chúng ta thấy rõ hoàn cảnh bi đát của người dân. Khi phố huyện bị bao trùm hoàn toàn bởi bóng tối. Đầu tiên là Liên, nhân vật là một cô gái mới lớn. Cô ý thức được cuộc sống hiện tại của mình, đặc biệt nhạy cảm với mọi thứ xung quanh. Trong khoảnh khắc ngày tàn, cô cảm giác buồn man mác. Liên gắn bó với quê hương từ nhỏ, đã quen với mùi đất, hương vị nơi đây. Khi bóng đêm bao phủ, liên nhanh tay “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại, trong lúc An đi tìm then để cài cửa cho chắc chắn”. Tiếp theo, cô tổng kết doanh thu sau một ngày bán hàng. An là em gái của Liên, luôn đồng hành, hỗ trợ chị mọi việc trong ngày.

Hình ảnh chị Tí “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch”. Chị làm mọi việc để trang trải lo cho con, gia đình. Bác Xẩm hành nghề ca hát, hy vọng người qua đường cho chác chút đỉnh. Tuy nhiên, nơi đây con người quá nghèo nàn, để có tư tưởng thưởng thức âm nhạc. Tiếp theo là bác Xiêu với gánh phở đầy, nhưng đối với phố huyện đây là “là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền”. Một tô phở cũng là quá xa xỉ, họ không đủ khả năng kinh tế để ăn, cái nghèo thật xơ xác.

Tiếp đến là cụ Thi, đây là nhân vật để lại ấn tượng với người đọc sâu sắc. Cụ suốt ngày uống rượu và chìm trong cơn say, bước chân đi không vững. Đây cũng là cách mà cụ chọn để làm cho cuộc sống đặc biệt, bớt nhàm chán. Người dân nơi đây vẫn hoạt động sôi nổi cả ban ngày lẫn ban đêm để sống tốt mỗi ngày, mặc dù rất khắc nghiệt. Họ chưa tìm ra một lối đi mới, thay đổi cuộc sống. Cuộc sống của người dân phố huyện hiện tại là chuỗi ngày lặp lại. Tuy nhiên, họ luôn có ước mơ, hy vọng, cố gắng để mong có tia hy vọng.

Chỉ khi Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ mới thấy được rõ cảm xúc của Liên và An khi đợi tàu. Đoàn tàu đi qua phố huyện mỗi đêm khuya muộn là chi tiết đắt giá nhất tác phẩm Hai Đứa Trẻ. Tuy nhiên, đoàn tàu chỉ đi ngang không hề dừng lại, không ban phát một thứ gì về mặt vật chất. Nhưng lại mang ý nghĩa đặc biệt cho tầm hồn hai đứa trẻ Liên và An. Ban đầu, Liên và An đợi tàu vì mẹ dặn, để mục đích bán hàng. Tuy nhiên, lý do chính để chị em Liên luôn háo hức, mong chờ tàu đến là vì mang lại cho chúng những thứ mà phố huyện không hề có.

Liên đợi tàu cả thanh xuân, tàu đến báo hiệu cô rất rõ. “Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Liên đánh thức em”. Tàu chỉ đến và “vụt qua” trong thoáng chốc, nên cần phải tập trung nhìn. Liên gọi em dậy để kịp xem khoảnh khắc quý báu khi tàu đến.

Tàu đến, âm thanh từ còi, người trên tàu cười cười nói nói, tiếng ma sát với đường ray, ánh sáng từ tác toa tỏa ra. Một sự vui vẻ, náo loạn chỉ có đoàn tàu mới có, khác hoàn toàn với không gian lặng lẽ nơi phố huyện. Ánh sáng, tiếng ồn chỉ đến và đi trong chốc lát, nhưng lại được chờ đợi suốt một ngày dài. Tàu qua, Liên và An vẫn lưu luyến, chăm chút đến khi mất hút đằng sau rặng tre. Lúc này bỗng tâm trạng Liên trĩu nặng, buồn lặng lẽ. Đoàn tàu là hình ảnh đại diện cho ước mơ đổi đời, tham vọng thay đổi cuộc sống con người phố huyện nghèo.

Qua phân tích Hai đứa trẻ để thấy được bức tranh phố huyện nghèo. Tác giả đi vào sâu tâm lí nhân vật, từng chi tiết một, làm nổi bật lên nét riêng mỗi người. Qua tác phẩm, chúng ta thấy con người cần có ước mơ, động lực sống để tốt hơn mỗi ngày.

Đã mấy mươi năm trôi qua, người đọc vẫn không quên một dáng hình khiêm nhường, từ tốn, rất mực đôn hậu bước những bước thật nhẹ vào làng văn hiện đại Việt Nam, mang theo những trang văn nồng nàn hồn thơ. Đúng như Nguyễn Tuân nói, “sáng tác của Thạch Lam đem lại một cái gì đó nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ ở “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” lại một lần nữa dắt ta vào thế giới trẻ thơ với những cảm xúc êm nhẹ, buồn thương.

Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được thấm cảm bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi phố huyện qua cái nhìn tinh nhạy của cô bé Liên nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên gói gọn trong hay từ “êm ả” và “đượm buồn”. Có âm thanh của tiếng trống thu không đánh lên từng hồi xa vọng, âm thanh của tiếng ếch kêu rên gợi tĩnh lặng một miền quê, âm thanh của tiếng muỗi vo ve đậm tô sự nghèo nàn. Không gian mở ra bởi màu “đỏ rực” của phương Tây, màu “ánh hồng” của mây trời, màu “đen sẫm” của tre làng. Có chút thanh bình, êm ả, nhưng cũng không ít thê lương, ảm buồn, nó đưa ta vào một miền không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê nửa tỉnh, với những xúc cảm giăng mắc nhẹ nhàng.

Nơi phố huyện được nới rộng ra theo không gian của một phiên chợ tàn: “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không còn là “lao xao chợ cá làng ngư phủ”, phiên chợ buổi vãn chiều thưa thoáng người, vắng sự náo nhiệt, tô đậm thêm sự lụi tàn.

Hiện lên trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn là những kiếp người tàn. Không phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng.

Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Đó là những đứa trẻ nhà nghèo “cúi lom khom” nhặt nhạnh những thanh tre thanh nứa còn sót lại trên nền chợ, là mẹ con chị Tí với quán hàng bán chẳng được bao nhưng đêm nào cũng dọn, là bà cụ Thi với tiếng cười ghê rợn đi lần vào trong bóng tối, là bác Siêu với gánh phở ế ít người vào ăn, là gia đình bác xẩm với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm. Họ đều là những phận người nhỏ bé, sống lê lết từng ngày trong sự tù đọng quẩn quanh trên cái “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người vô danh ấy, Thạch Lam bày tỏ một mối quan hoài sâu sắc về cuộc sống của hai đứa trẻ. Giữa lứa tuổi mà đáng lẽ thơ ngây còn chưa hết, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em trông coi hàng giúp mẹ ở một gian hàng nhỏ thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Thức hàng cũng chỉ là vài quả sơn đen hay mấy bánh xà phòng. Cơ cực đã đành, nhưng điều làm ta xa xót hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường đang dần ngưng trệ. Chúng ngày ngày phải giam mình trong không gian u tối của phố huyện, tự cầm cố tuổi xuân và sức trẻ, và có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.

Nhưng vốn là người “yêu mến và trang trọng trước sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ muốn dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dẫu hiện thực ấy có chân thật đến đâu. Cố tìm mà hiểu chất ngọc sáng ẩn tàng nơi mỗi con người, khơi sâu “cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”, đó mới là điều Thạch Lam luôn muốn làm. Có người nói, Thạch Lam sinh ra là để hóa giải hai khuynh hướng sáng tác, có lẽ điều ấy thể hiện rõ nhất là ở những vẻ đẹp trong tâm hồn cô bé Liên được nhà văn viết bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa một phố huyện nghèo nàn xơ xác vẫn sáng lên những xúc cảm tinh nhạy của một cô bé biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều buông xuống mà lòng tự thốt lên: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”, chị thấy ở đó sự yên bình, và thấy cả lòng “buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nghe hương ẩm từ nền chợ bốc lên mà tưởng như đó là “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống lụi tàn, có mấy ai cảm được từ “một đêm mùa hạ êm như nhung” những gợn gió thoảng qua, thổi mát tâm hồn, mấy ai để tâm đến hoa bàng rụng xuống vai khe khẽ từng loạt một? Vậy mà những chứng tích của một tâm hồn mới lớn đã gọi về hết thảy những cảm xúc ấy: vừa rung động trước cái đẹp nhẹ nhàng, vừa buồn thoáng qua trước yên bình tĩnh lặng.

Không chỉ có một tâm hồn tinh nhạy, ở Liên còn có một niềm trắc ẩn sâu sắc, một mối đồng cảm nồng hậu với những kiếp người nhỏ bé quanh mình. Cuộc sống chẳng khá hơn họ, nhưng không vì thế mà Liên khép lại lòng thương đối với những đứa trẻ nghèo, hay bớt đi lời quan tâm với mẹ con chị Tí. Chị cũng chẳng ngại rót đầy cốc rượu cho bà cụ Thi, chẳng thờ ơ với gánh phở bác Siêu, gia đình bác xẩm. Sự động lòng và niềm bao dung đối với những người xung quanh phải chăng là lòng đồng cảm yêu thương mà Thạch Lam đã gửi gắm gián tiếp qua nhân vật của mình?

Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng luôn thường trực mà chúng tự nhiên lên ngay trong cuộc sống bế tắc của mình. Sinh thời, Thạch Lam từng tâm niệm: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ.” Hai đứa trẻ đã tự tìm cho mình niềm vui ở những lần chúng ngược dòng tâm tưởng, trở về quá khứ, miên man trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội nơi chúng từng được vui chơi, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hay những lần chúng ngước lên bầu trời đầy sao, tìm kiếm dòng sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông, cũng chính là lúc chúng để cho lòng mình lặng theo mơ tưởng. Nhưng có lẽ khao khát vẹn tròn nhất, ước mơ đủ đầy nhất, hai đứa trẻ gửi cả vào đoàn tàu. Không chỉ hai chị em Liên mà “từng ấy người trong bóng tối trông đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn sáng mãnh liệt nhất.

Đoàn tàu hoạt động cuối cùng của một ngày trong con mắt Liên và những người dân nơi phố huyện lại chính là động lực cho họ cố bám bíu vào cuộc sống này. Đoàn tàu xuất hiện bắt đầu bằng tiếng reo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đoàn tàu mang theo ánh sáng rực rỡ, mang theo âm thanh náo nhiệt, chứ không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như ngọn đèn của chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu. Chị em Liên cố thức chờ tàu không phải vì để bán được dăm ba món hàng, mà để được chìm đắm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội ấy từng đựng đầy những kỉ niệm thân thương về một thời gia đình còn khấm khá, Hà Nội ấy trong tâm thức hai đứa trẻ là miền không gian đẹp vô tận và bạt ngàn niềm vui.

Vì lẽ đó mà đoàn tàu vừa như một tia hồi quang đưa hai chị em ngược dòng về quá khứ, vừa như một tia vọng quang thắp sáng cả tương lai. Nhưng nhìn ở một góc nào, phải chăng chính đoàn tàu lại càng tô đậm cuộc sống bế tắc của người nông dân, khi mà niềm vui lớn nhất trong ngày của họ chỉ là chờ tàu, chẳng thể làm gì hơn để vượt thoát khỏi không khí tù đọng cứ ôm trùm ấy. Qua đây, nhà văn muốn gửi một thông điệp: Cần phải thay đổi xã hội để cho những con người vô danh kia không phải sống vô nghĩa.

Nhắc đến Thạch Lam là nhắc đến một nhà văn lớn của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Nhà văn Nguyễn Tuân khi nhận xét về Thạch Lam từng viết: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn từ những chân cảm đối với con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là nhà văn luôn quý mến cuộc sống, trân trọng sự sống của mọi người xung quanh”. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chính là minh chứng tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.

“Hai đứa trẻ” được rút trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938). Nhân vật chính của tác phẩm là hai chị em Liên và An. Do gia đình xảy ra biến cố, hai đứa trẻ theo mẹ về quê ngoại ở một phố huyện nghèo. Ngày ngày hai chị em Liên và An trông coi căn hàng xén nho nhỏ với vài ba bao thuốc, dăm bánh xà phòng… và chờ đợi đoàn tàu đi ngang phố huyện. Qua con mắt ngây thơ của Liên, cuộc sống nơi phố huyện hiện lên chân thực, sống động. Đó là mảng màu u tối trong không gian chật hẹp, tù túng với những con người chậm chạp, vô hồn và nghèo đói. Truyện ngắn thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp sống nghèo khổ, chìm khuất trong mòn mỏi, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện trước cách mạng và sự trân trọng với những mong ước nhỏ bé, bình dị mà tha thiết của họ.

Như đã nói, làm nên truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn. Mở đầu câu chuyện, đập vào giác quan người đọc là khung cảnh chiều tàn, ảm đạm và u tối. Thời gian được khắc họa trong tác phẩm ngắn ngủi, mọi sự việc diễn ra được kể từ lúc chiều tối cho đến đêm. Cảnh chiều tàn, trước hết qua con mắt của người nghệ sĩ, vẫn mang vẻ đẹp vô cùng yên ả, bình dị và thơ mộng. “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Thế nhưng, bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn chứa sau nó là cả một nỗi buồn mà người vẽ đã cố ý che đi bằng những mảng màu rực rỡ. Có người đã nhận xét, văn Thạch Lam vừa chất chứa hiện thực vừa giàu tính lãng mạn. Điều đó hoàn toàn đứng khi đặt vào truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Bởi khuất lấp sau nhiều tầng lớp ngôn từ, điều Thạch Lam gửi gắm đó là cuộc sống mòn mỏi, tăm tối vây hãm con người.

Nơi chị em Liên ở là một phố huyện nghèo và thực chất nó là cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.” Chỉ cần nhìn vào những gì còn sót lại sau phiên chợ cũng đủ để thấy cuộc sống cư dân ở đây khổ cực như thế nào. Những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như để trao lại cho nhau những nỗi tẻ nhạt cuộc sống mưu sinh. Những đứa trẻ nhà nghèo đang lúi húi sinh nhai trên đống phế phẩm của phiên chợ quê nghèo. Chúng “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn cùng. Tất cả như đang cố sức để sống và hy vọng nhưng sự cố gắng thì đã quá sức còn hi vọng vốn quá mong manh.

Nổi bật trên nền cảnh tàn tạ, hắt hiu của phố huyện là hình ảnh những kiếp người tàn, quẩn quanh, tù túng không lối thoát. Đó là vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn bầu thê lương, trên manh chiếu rách, thằng con bò ra đất ngoài manh chiếu, nghịch nhặt rác bẩn. Đó là mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối đến lại dọn hàng nước ven đường “chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Đó là bác phở Siêu với gánh hàng vốn là thứ quà xa xỉ đối với người dân phố huyện, là bà cụ Thi điên nghiện rượu, là những đứa trẻ con nhà nghèo và chính cả hai chị em Liên… Thân phận tàn tạ đang héo mòn, con người hoà lẫn cùng bóng tối như những cái bóng vật vờ lay lắt, mong manh đang trôi theo thời gian. Cuộc sống ấy cứ đều đều, đơn điệu, lặp đi lặp lại buồn tẻ, nhàm chán đối với người dân phố huyện. Tất cả họ đang mong đợi một cái gì đó tươi mát thổi vào cuộc đời họ.

Nét vẽ âm thanh, ánh sáng, con người của bức tranh phố huyện tưởng chừng rời rạc, nhưng nó hoà quyện cộng hưởng trong hệ thống u buồn, trầm mặc, xót xa. Điểm thêm vào cuộc sống ấy là ngọn đèn dầu cùng bóng tối bao phủ, càng ngợi sự nghèo khổ lay lắt đến tội nghiệp.

Cảnh ngày tàn được miêu tả ảm đạm, tù túng với những kiếp người tàn. Và, sự tẻ nhạt, tăm tối như được nâng lên gấp nhiều lần khi Thạch Lam miêu tả cảnh phố huyện lúc đêm khuya. Trong tác phẩm có đến hơn hai mươi lần từ “tối” được lặp lại. “Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”, “đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giác ngột ngạt. Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trước cách mạng tháng Tám nói chung. Đó cũng là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.

Không chỉ là không gian, cảnh vật, cuộc sống của những cư dân nơi phố huyện cũng phủ đầy đêm tối. Họ hoạt động, mưu sinh trong bóng tối mịt mù. Tối đến, mẹ con chị Tí dọn hàng nước. Đêm về, bác phở Siêu xuất hiện. Trong bóng tối, gia đình bác hát Xẩm kiếm ăn. Khi bóng tối tràn ngập là lúc bà cụ Thi điên đến mua rượu uống rồi sau đó “đi lần vào đêm tối”. Còn Liên và An đêm nào cũng ngồi lặng ngắm phố huyện và chờ đoàn tàu. Cuộc sống lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ với những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ cùng mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”.

Trong bóng tối đen đặc ấy, hình ảnh ngọn đèn dầu được nhắc hơn mười lần như một chút hi vọng mong manh Thạch Lam muốn gieo vào lòng con người. Đó là “ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng. Ngọn đèn dầu, mặt khác cũng là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hạt sáng của ngọn đèn dầu hắt ra chỉ như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen càng bi đát, tối tăm.

Trong toàn bộ tác phẩm, nhân vật mà Thạch Lam chú ý nhiều nhất là nhân vật Liên. Mặc dù Liên chỉ là một cô bé mới lớn nhưng ở em có những suy nghĩ, cảm xúc chân thực, đẹp đẽ đáng trân trọng. Ở đây, trước cảnh tăm tối, tù túng nơi phố huyện, tâm trạng của Liên cũng trở nên buồn bã, tư lự. Liên nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội, “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Khi ấy “mẹ Liên nhiều tiền được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Đó là cuộc sống khác hẳn với cảnh sống tăm tối, tù túng nơi phố huyện. Tuy nhiên, với cuộc sống hiện tại, cảm nhận của Liên tuy buồn nhưng thân thuộc, gần gũi. Liên không ghét bỏ hay từ chối cuộc sống hiện tại. Liên và An lặng lẽ ngắm các vì sao, lặng lẽ quan sát những gì diễn ra ở phố huyện và xót xa cảm thông, chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo, tù đọng trong bóng tối của họ.

Một chút ánh sáng của những ngọn đèn có thể không đủ để xua đi cái tăm tối, ảm đạm, quẩn quanh của cuộc sống. Tuy nhiên, Thạch Lam không dập tắt hy vọng của những con người khốn khổ ấy. Ông mang đến cho họ niềm vui, hy vọng lớn lao hơn dù nó chỉ diễn ra trong chốc lát, đó là chuyến tàu đêm rực rỡ ánh đèn. Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên và những cư dân phố huyện. Nó mang đến một thế giới khác: ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách… và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện. Chuyến tàu ở Hà Nội về chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện. Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vì mục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì nhiều mục đích khác. Liên hi vọng được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống. Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức vui vẻ, đủ đầy mà chị em cô đã từng được sống. Chuyến tàu cũng giúp Liên nhìn thấy rõ hơn sự ngưng đọng tù túng của cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn của cuộc đời mình. Có thể nói, Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.

Trong tác phẩm, hình ảnh chuyến tàu đêm là một biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc. Nó là đại diện của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và sự rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện. Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn lay tỉnh những người đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là giá trị nhân bản của truyện ngắn này. Bên cạnh đó, chuyến tàu cũng là biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.

Để làm nên thành công của tác phẩm, bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc, không thể không kể đến tài hoa nghệ thuật của Thạch Lam. Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh, mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, người đọc hoàn toàn có thể nhận ra câu chuyện gần như không có cốt truyện, tất cả chỉ đơn giản là những mảnh cảm xúc, những chi tiết, sự việc nhỏ nhặt chắp nối với nhau qua suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật Liên. Bút pháp tương phản đối lập cũng được xem là một thành công của Thạch Lam trong quá trình kể chuyện. Đó là sự đối lập giữa bóng tối đậm đặc với ánh đèn dầu leo lét, là sự đối lập giữa cuộc sống quẩn quanh, ảm đạm của người dân phố huyện với cuộc sống ồn ã, sôi động trên chuyến tàu đêm. Với sự đối lập này, Thạch Lam hướng đến nhấn mạnh, tô đậm cuộc sống tăm tối, tù túng, vô vọng của những cư dân nơi phố huyện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra khả năng miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật từ bóng tối đến ánh sáng và tâm trạng của con người mà đặc biệt là nhân vật Liên. Đó có thể là buồn bã, cảm thông hay nuối tiếc… tất cả đều tinh tế và phù hợp với diễn biến câu chuyện. Ngoài ra, cũng có thể kể đến hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, tượng trưng và giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thỏ chất trữ tình sâu sắc. Tất cả đã góp phần làm nên chất văn của Thạch Lam, đặc sắc và đầy thu hút.

Hai đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm 1937 1938 khi mà xã hội Việt Nam ở vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của Thạch Lam, cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám ảnh lòng người. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình cảm của mình với những cảnh đời khác nhau.

Tác phẩm Hai đứa trẻ được bắt đầu bằng cảnh chiều tà trên phố huyện. Văn học xưa nay khi tả cảnh chiều thường có những hình ảnh chim về tổ, người đi xa nhớ nhà, nỗi buồn hoàng hôn… Ở Hai đứa trẻ ta không bắt gặp hình ảnh đó nhưng cảnh chiều vẫn thấm thía một nỗi buồn và trong cái buồn nhà văn vẫn phát hiện nét đẹp thi vị mang chút hoang sơ của làng quê “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn… Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”.

Cùng với cảnh chiều tà là chợ tàn với hàng loạt những hình ảnh phơi bày vẻ nghèo xơ xác ở chốn này: “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đấ chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Ngay sau cảnh chợ tàn là cảnh bóng tối bao phủ. Dưới con mắt của Liên thì giờ đây tất cả đã ngập đầy bóng tối. Thạch Lam miêu tả bóng tối thật kì diệu. Có đến 30 lần tác giả nhắc đến bóng tối. Bóng tối đến từ nhiều phía: từ đám mây sắp tàn, từ rặng tre đã đen kịt, từ tiếng muỗi vo ve trong góc nhà, tiếng ếch kêu ngoài đồng để rồi nó bao trùm lên đường phố và các ngõ hẻm: “Tối hết cả từ con đường khấp khểnh ra sông…, các ngõ hẻm vào làng thì càng tối đen hơn nữa”

Với cách miêu tả này người đọc sẽ cảm nhận bóng tối như một cái gì đó rất hãi hùng, như một sự hăm dọa. Nó luồn lách mọi nơi, nó thâm nhập vào cảnh vật. Nó trùm lên và đè nặng lên cuộc sống ngột ngạt ở phố huyện nghèo nàn này.

Trong chuyện cũng có những chi tiết nói về ánh sáng ấy vừa leo lét tù mù, yếu ớt không đủ sức xua đi bóng tối mà trái lại lại còn gây cảm giác bóng tối càng đậm đặc hơn. Cứ tối đến thì bóng những con người bắt đầu xuất hiện khiến người đọc liên tưởng đến những loài chim ăn đêm lặn lội. Mặt khác ta cũng nghĩ ngay đến cảnh đời tăm tối trong đêm đen của chủ nghĩa thực dân phong kiến.

Cách miêu tả với từng gương mặt cụ thể, mỗi người có một đời sống riêng: chị Tí cứ nhá nhem tối là xuất hiện. Sau một ngày mò cua bắt tép vất vả, mặc dù biết là chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào chị cũng dọn hàng. Hình ảnh ngọn đèn leo lét chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ở quán nước của chị lại khiến ta liên tưởng tới cuộc sống tù mù, leo lét

Khi bác phở Siêu xuất hiện với một chấm lửa nhỏ và lơ lửng trong đêm tối, chập chờn như ma trơi. Từ khi dọn hàng cho tới lúc về bác không bán được đồng nào. Bà cụ Thi điên từ trong bóng tối đi ra với tiếng cười khanh khách. Sau khi uống cạn cút rượu, tiếng cười của cụ lại chìm vào bóng tối. Ở nhân vật này ẩn chứa một sự tội nghiệp u uất đầy bí ẩn.

Nhưng cảnh ám ảnh nhất là hình ảnh vợ chồng bác Xẩm mà nhà văn đã ba lần nhắc đến họ. Họ xuất hiện với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm tối rồi với đứa con bò lê trên đất cát trong bóng tối và khi về đếm về khuya thì họ ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Sau khi miêu tả từng gương mặt tác giả khái quát lại “Chừng ấy con người trong bóng tối như mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Rõ ràng nhà văn đã thấu hiểu đồng cảm sâu sắc với những cảnh đời trong bóng tối và chính Thạch Lam cũng mong đợi được đổi đời.

Thạch Lam – một nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học văn lãng mạn. Tuy nhiên cái lãng mạn trong văn của ông nó rất lạ, độc đáo: xuất phát từ hiện thực, tinh tế, nhẹ nhàng và đi sâu vào lòng người. Đó là cái lãng mạn tích cực, lãng mạn đẹp. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút ra từ tập “Nắng trong vườn” là một minh chứng. Truyện viết xúc động về người nghèo, những em bé nhà nghèo ở một phố huyện nhỏ với lời văn nhẹ nhàng, tinh tế nói lên lòng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.

Truyện Hai đứa trẻ được tác giả miêu tả theo trình tự không gian và thời gian. Không gian đó là từ khi mặt trời bắt đầu lặn cảnh vật có màu sắc nhờ nhờ rồi chuyển sang đen sẫm, còn trình tự thời gian từ lúc chiều tà tới đêm. Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày thông qua tiếng trống thu không cùng hình ảnh : “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Đó là một buổi chiều êm ả, không gian tĩnh lặng tới mức có thể nghe được cả tiếng kêu của lũ ếch nhái từ ngoài đồng xa vọng lại theo làn gió thổi : “ Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ bay vào”. Khung cảnh phố huyện buổi chiều tà còn được miêu tả cụ thể, sinh động và gợi cảm dưới mắt của hai đứa trẻ. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu “ người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Qua hình ảnh cảnh chợ tàn đã phần nào phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Sau khi buổi họp chợ tàn, mọi người ra về và khi đó trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Đồng thời cảnh chiều tà nơi phố huyện còn được miêu tả qua khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Thông qua tất cả các âm thanh và hình ảnh trên đã vẽ lên một bức tranh phố huyện nghèo, buồn nhưng lãng mạn.

Trời chuyển sang tối dần : “Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.”. Ánh sáng của mặt trời yếu dần rồi mất hẳn, những loài động vật kiếm ăn đêm xuất hiện đó là những con muỗi bay và phát ra tiếng vo ve. Tất cả khung cảnh đều dần bị bao trùm bởi màu đen khi bóng tối kéo tới. Nó khiến cho cảnh phố huyện trở nên buồn, u tối. Cả con phố đều ngập chìm trong màu đen, ánh sáng chỉ xuất hiện ở một vài nơi nhưng chúng yếu ớt và le lói chiếu sáng một vùng hẹp như ngọn đèn dầu từ trong quán của chị em Liên, ánh sáng từ bếp lửa di động của bác phở Siêu và ngọn đèn Hoa Kỳ của mẹ con chị Tí soi ra từ quán nước hay ánh sáng tỏa ra từ các toa tàu khi có tàu đi qua phố huyện nhưng hình như trên đó là một thế giới khác. Cả một không gian rộng lớn nơi phố huyện chỉ có vài điểm sáng nhỏ, yếu gợi lên một bức tranh của một phố huyện nghèo và nhuốm màu của nỗi buồn.

Bức tranh phố huyện còn được miêu tả sinh động với cuộc sống thường nhật của người dân phố huyện- những con người sống cuộc sống nghèo khổ, vất vả, lam lũ trong cuộc mưu sinh như : những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, vợ chồng bác Xẩm, bà cụ Thi điên và nhân vật chính của truyện ngắn là hai chị em Liên và An. Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Trước hết, là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ chúng : “tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì có thể dùng được”. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.

Advertisement

Tiếp đến là mẹ con chị Tí, ngày nào cũng vậy cứ đến giờ này mẹ con chị lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này” với những mặt hàng rất mộc mạc, bình dân như nước chè tươi, thuốc lào bởi vậy khách hàng của quán chị cũng chỉ là phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục mà thôi.

Cuộc sống vất vả như vậy nhưng ít nhất mẹ con chị cũng có chỗ bán cố định với đồ nghề mặc dù chỉ “chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén” nhưng so với vợ chồng bác Xẩm thì vẫn có vẻ may mắn hơn. Vợ chồng bác Xẩm mù lòa cùng đứa con đang bò lê ra cát đang vất vả mưu sinh với gia tài chỉ có manh chiếu rách và chiếc thau thủng. Cuộc sống hàng ngày của vợ chồng bác và đứa con nhỏ phụ thuộc vào lòng tốt, sự bố thí của người khác. Họ cho gì thì ăn nấy. Vì vậy, nhiều hôm cả ngày không xin được gì cũng chẳng có ai thương xót thì bao nhiêu miệng ăn nhà bác đều phải nhịn đói.

Ngoài các nhân vật như mẹ con chị Tí, vợ chồng bác Xẩm và một vài đứa trẻ bới rác Thạch Lam còn phác họa một nhân vật nữa là bà cụ Thi. Cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu , khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và “tiếng cười khanh khách nhỏ dần”. Một nhân vật khác cũng được nhắc đến khi nói về cuộc sống của người dân phố huyện đó chính là bác phở Siêu. Hình ảnh của bác xuất hiện với gánh hàng kẽo kẹt, một bên là hàng một bên là cái bếp than hồng.

Thạch Lam đã thể hiện sự thương xót, nhân hậu cùng một trái tim đầy tình người đối với hai đứa trẻ, đó là nhân vật Liên và bé An. Hai chị em Liên chuyển từ Hà Nội về sống ở phố huyện này kể từ bố Liên bị mất việc. Mẹ Liên đã thuê một quán nhỏ gần ga để bán hàng xén và giao công việc này cho hai chị em. Ngày nào cũng vậy, theo lời mẹ Liên thường đóng cửa muộn bởi: “Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ”. Chính vì vậy, hai chị em ngày nào đến tầm tối lại cùng nhau ra ngồi trên chõng đợi tàu chạy qua. Khi nhìn vào ánh sáng của tàu khiến hai chị em nhớ lại khoảng thời gian sống trên Hà Nội, đó là những tháng ngày cuộc sống đầy đủ hạnh phúc của gia đình Liên. Liên và An đều là những cô bé còn nhỏ nhưng đã phải sống trong cảnh phố huyện nghèo cùng với những con người vất vả, lam lũ đang từng ngày từng giờ vật lộn với cuộc mưu sinh là một bức tranh hiện thực của cuộc sống nơi phố huyện. Nhưng với trái tim nhân hậu, giàu tình thương của mình Thạch Lam đã thổi vào bức tranh ấy chất lãng mạn, niềm hy vọng vào cuộc sống thông qua nhân vật Liên và An. Với cách miêu tả tâm hồn hồn nhiên trong sáng và mơ mộng của hai chị em Liên khi chờ tàu về. Chúng luôn háo hức mỗi khi được ngồi ở chõng chờ đoàn tàu đi qua. Trong suy nghĩ, tưởng tượng của hai chị em cuộc sống trên tàu chắc hẳn rất vui, rất hạnh phúc và nó như một thế giới khác, khác hẳn so với cuộc sống mà chị em Liên và người dân phố huyện đang sống một cuộc sống tù túng, tẻ nhạt. Chúng mơ ước, khao khát một ngày sẽ được lên đoàn tàu và đến nơi hạnh phúc- nơi chúng có thể được uống những thứ nước xanh đỏ mơ ước. Chính vì vậy, hai chị em rất háo hức chờ tàu, rồi ngắm, nhìn theo cho tới khi tàu đi khuất xa hẳn thì mới chịu dọn hàng. Đó đã là lúc trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối nhưng luôn hi vọng, ước mơ về một cuộc sống tươi sáng, đẹp đẽ.

Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả.

Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong chùm truyện ngắn đặc sắc của ông, những hình ảnh chi tiết trong truyện giống như một dòng sông cuốn chúng ta vào đó, và cảm nhận được những gì đang xảy ra với câu chuyện của tác giả.mọi thứ diễn ra thật nhẹ nhàng mà cũng mãnh liệt xoáy sâu vào suy nghĩ và cách cảm nhận tác phẩm của từng độc giả.

Nhà văn là những người nói hộ cho hiện thực cũng có khi họ thi vị hóa cho những gì đang xảy ra xung quanh họ, từ những điều đơn giản nhất cho tới những thứ mà con người ta hay nghĩ đến,văn thơ đóng một vai trò không thể thiếu. Với ngòi bút tài hoa giàu lòng trắc ẩn, tác phẩm Hai đứa trẻ ra đời mang ý nghĩa nhân văn.

Những con người xuất hiện trong tác phẩm mang một cuộc sống cơ cực nghèo khổ, cái nghèo bám lấy họ và họ không có lối thoát. Họ mong muốn có một cuộc sống sung túc , tuy không giàu có những làm sao cho cuộc sống mưu sinh đỡ vất vả. Qua đây, Thạch Lam cho ta nhìn nhận những sự khó khăn vất vả mà những con người nơi đây đang phải chống chịu. Những chi tiết trong tác phẩm tuy là miêu tả về hiện thực nhưng lại không thiếu những chi tiết sống động, lãng mạn.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh chiều tà,hình ảnh xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm, là chính khoảnh khắc mà khiến con người ta nhận ra nỗi buồn nhiều nhất. Những âm thanh quen thuộc, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, và khung cảnh xung quanh tác động đến tâm trạng của mỗi người.Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn,bầu trời gồm những áng mây hồng, như được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác ưu buồn và cô đơn.

Thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận ra đây là một buổi chiều buồn bã và chán nản. Thời gian bắt đầu chuyển động dần tới đêm, những hình ảnh chiều tàn và hình ảnh chợ chiều tàn hiện ra càng thể hiện sự nghèo khổ và hiu hắt ở nơi đây.

Những con người cần mẫn , luôn mong muốn cuộc sống của họ đầy đủ hơn,cuộc sống thật vất vả và đầy khổ cực bươn chải. Hình ảnh những con người xuất hiện trong “ Hai đứa trẻ” tuy xuất hiện không nhiều nhưng mang một nét riêng biệt,nổi bật lên đó là hình ảnh của cô gái Liên, dù còn nhỏ nhưng tâm hồn và suy nghĩ của cô thực sự như là một thiếu nữ.

Cuộc sống ở đây chìm ngập trong bóng tối và tẻ nhạt, họ sống cùng sự buồn chán và tuyệt vọng,đối với họ, họ đang sống cuộc sống tạm ,một cuộc sống tĩnh lặng và không biết ngày mai sẽ như thế nào. Sau khi chợ chiều tàn, mọi người đều đi về và tiếng ồn ào cũng mất, như dấu hiệu của sự tĩnh lặng của đêm tối bắt đầu. Những rác rưởi, vỏ bưởi và hình ảnh những đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ còn sót lại chỉ là những thanh tre thanh nứa…

Đêm bắt đầu buông xuống, cuộc sống của một đêm ở phố huyện nghèo lại bắt đầu.Nhân vật Liên trong tác phẩm sửa soạn lại hàng trên chiếc chõng tre,mẹ con chị tí, sáng mò cua bắt ốc, tối lại mở thêm hàng nước để kiếm thêm thu nhập. Quán hàng phở cũng bắt đầu sửa soạn còn hai cha con nhà bác Xẩm thì chưa hát chưa kéo đàn vì vẫn chưa có khách nghe.

Đứa con thì nhoài ra nghịch đất cát ở bên ngoài. Mọi thứ thật đơn điệu, không có một chút niềm vui của họ, chắc có lẽ họ nghĩ và hy vọng rằng, hàng quán đắt khách kiếm thêm được tiền quả là một niềm vui một niềm hạnh phúc và mang lại một cuộc sống no đủ hơn. Hình ảnh cụ Thi điên đắm chìm vào men rượu, bước đi lảo đảo, cụ sống một cuộc sống k còn tự chủ của bản thân, có hay chăng cụ tìm đến rượu để quên lãng đi tất cả đau khổ và chìm vào đó để tìm thú vui của mình.

Những con người nơi phố Huyện này, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng với chị em Liên thì có lẽ vẫn chưa quen với sự tẻ nhạt buồn chán nơi đây,bởi hoàn cảnh đưa đẩy, bố của chị em Liên thất nghiệp phải về phố huyện để mưu sinh. Hai chị em phải nhận thức ra được điều này và làm quen dần với cuộc sống nơi đây.

Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cả những kiếp người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào môi buổi tối. Không gì khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu. Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khu phố huyện có một chút thay đổi ngoài những ánh sáng tẻ nhạt và không đủ sáng như thường ngày.

Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng ngày ở Hà Nội, hai chị em được dẫn đi chơi,được sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, ngươi đi qua lại tấp nập và được uống với những cốc nước xanh đỏ.

Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghĩa hơn, muốn những gì mà họ khát khao và cháy bỏng bấy lai nay điều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà chờ đợi mỏi mòn.

Những ước mơ của họ chỉ chợt lóe lên khi đoàn tàu chạy qua, cũng có khi có có ước mơ nhưng chỉ khi đoàn tàu chạy qua họ mới cảm thấy những mong muốn của họ mới trở nên lấp lánh và có hi vọng hơn. Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Những kiếp người nơi phố Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đo thực ra chỉ là sự mong manh và huyền ảo.

Qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Tài năng của Thạch Lam thông qua đó mà được bộc lộ,đặc biệt là sự tinh tế tròn tả cảnh và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật khiến truyện đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất.

Trào lưu văn học lãng mạn là một trong số những trào lưu văn học lớn trong giai đoạn 1930 – 1945 với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng, Thạch Lam là một trong số những gương mặt tác giả tiêu biểu cho trào lưu ấy. Với những trang viết nhẹ nhàng, truyện không có cốt truyện, đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, những truyện ngắn của Thạch Lam luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trích trong tập “Nắng trong vườn” là sáng tác xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông.

Toàn bộ tác phẩm được đặt dưới con mắt của nhân vật Liên – một thiếu nữ mới lớn. Chính điều đó không chỉ làm cho câu chuyện mang tính khách quan mà hơn thế nữa còn làm cho bức tranh cảnh vật thấm đẫm cảm xúc của nhân vật, trở nên sinh động và mang màu sắc mới. Thêm vào đó, tác phẩm được đặt trong bối cảnh không gian của một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và đặc biệt là khoảng thời gian từ chiều tối đến đêm muộn – một khoảng thời gian có ý nghĩa đặc biệt trong văn học. Để rồi, từ việc lựa chọn điểm nhìn, không gian và thời gian ấy đã đưa đến cho người đọc bức tranh sinh động về cảnh vật và con người phố huyện trong những khoảng thời gian khác nhau.

Mở đầu tác phẩm chính là bức tranh phố huyện lúc chiều tàn. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn được tác giả miêu tả trước hơn hết ở bức tranh cảnh vật với đầy đủ cả âm thanh, màu sắc và đường nét. Âm thanh đầu tiên được tác giả gợi lên ở câu văn mở đầu tác phẩm đó chính là “tiếng trống thu không trên cái chòi canh của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra như để gọi buổi chiều về”. Câu văn dài, được tách thành nhiều vế như gợi lên nhịp bước của thời gian, tiếng trống thu buổi chiều ấy như đang điểm nhịp từng bước, từng bước một để gọi chiều tàn. Cùng với đó, tác giả còn miêu tả tiếng ếch nhái và tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve – đó đều là những âm thanh quen thuộc, bình dị của làng quê Việt Nam. Cùng với đó, bức tranh cảnh vật còn hiện lên với sắc màu “đỏ rực như lửa cháy” nơi phương Tây và cả sắc “ánh hồng của những hòn than sắp tàn.

Như vậy, có thể thấy, tác giả đã gợi lên một bức tranh cảnh vật, bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện vừa thơ mộng, gần gũi, sinh động nhưng đâu đó nó vẫn ánh lên cái xơ xác, vắng lặng. Không chỉ dừng lại ở tái hiện bức tranh cảnh vật, nhà văn Thạch Lam còn miêu tả một cách sinh động về cuộc sống của những người dân nơi đây thông qua cảnh chợ tàn và hình ảnh con người. Chợ đã tàn, người cũng đã về hết và tiếng ồn ào giờ đây cũng đã thưa thớt dần, đâu đó trên nền đất chỉ còn lại rác rưởi, những vỏ thị, lá nhãn, lá mía,… Tất cả những chi tiết ấy đã khái quát rõ nét khung cảnh chợ tàn nơi phố huyện và cũng trên cái nền của thiên nhiên, của chợ tàn, hình ảnh con người dần xuất hiện. Đó là hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo canh chợ đang “cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đó là hình ảnh của mẹ con chị Tí với cuộc sống tẻ nhạt, ngày nào cũng sáng mò cua bắt tép, chiều đến lại dọn gánh hàng nước từ chập tối cho tới đêm dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Đó là bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách. Và có lẽ nổi bật lên trên đó chính là hình ảnh của chị em Liên và An. Vì bố mất việc, cả gia đình Liên phải chuyển về đây và được mẹ giao cho trông coi một gánh hàng nước nhỏ.

Hình ảnh của Liên chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng. Liên giống như một người chủ gia đình thực sự, một cô gái đảm đang, tháo vát và có thể lo toan tất cả mọi việc. Bằng bút pháp tả thực, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi phố huyện nghèo – một cuộc sống vất vả, cơ cực, lam lũ là tẻ nhạt. Để rồi, trước khung cảnh ấy, một cô gái có tâm hồn nhạy cảm như Liên lại hiện về bao nỗi niềm tâm trạng. Đầu tiên, Liên thấy buồn biết bao trước khoảnh khắc của ngày tàn – “Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác”. Thêm vào đó, khi chứng kiến hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo cạnh chợ, Liên thấy “động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”. Với những nét tâm trạng đó có thể thấy Liên là cô gái tinh tế, nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn. Đồng thời, qua nhân vật Liên cũng giúp chúng ta hiểu thêm về tấm lòng xót thương của nhà văn Thạch Lam dành cho những con người nơi phố huyện nghèo.

Không chỉ miêu tả thành công bức tranh phố huyện lúc chiều tàn, bức tranh phố huyện lúc đêm khuya cũng được nhà văn Thạch Lam miêu tả với nhiều chi tiết độc đáo. Bức tranh cảnh vật nơi phố huyện lúc đêm tối để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc trước hơn hết ở bóng tối dày đặc, bao phủ khắp mọi nơi. Nhà văn Thạch Lam đã sử dụng hàng loạt các chi tiết để miêu tả bóng tối dày đặc ấy, “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”. Có thể thấy, bóng tối đã xâm nhập và bủa vây lấy cuộc sống của những con người nơi phố huyện. Đối lập với hình ảnh bóng tối đó chính là hình ảnh ánh sáng. Nếu bóng tối được miêu tả dày đặc, mịt mù thì ánh sáng lại hoàn toàn ngược lại. Đó chỉ là thứ ánh sáng yếu ớt, nhỏ nhoi, chỉ là những “hột sáng”, “vệt sáng”, “một chấm lửa vàng đi trong đêm tối”… Có thể thấy, nhà văn Thạch Lam đã khéo léo làm bật nổi sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối – một thủ pháp quen thuộc của văn học lãng mạn. Nhưng không chỉ dừng lại ở ý nghĩa tả thực, hình ảnh bóng tối và ánh sáng còn mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống leo léo, tàn lụi của những số phận nghèo khổ trong đêm tối của xã hội. Không chỉ dừng lại ở khắc họa sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, ngòi bút của Thạch Lam còn đi sâu tái hiện cuộc sống của những con người trong đêm tối mịt mờ ấy. Một gia đình bác phở Siêu với “món ăn xa xỉ”, hôm nào cũng ế khách. Một gia đình bác Xẩm với manh chiếu, thau sắt trắng và tiếng đàn trong đêm tối tĩnh lặng. Một chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm và cả chị em Liên ngày nào cũng trông cửa hàng cho mẹ. Cuộc sống của những con người nơi đây ngày nào cũng thế, cũng quẩn quanh với bấy nhiêu công việc, tù túng, không lối thoát. Và rồi, trước khung cảnh của phố huyện lúc đêm khuya, Liên lại nhớ Hà Nội – nhớ quá khứ vui vẻ và sung túc “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội…Hà Nội nhiều đèn quá!” và lại khao khát, đón đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội đi qua.

Tóm lại, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam với giọng văn nhẹ nhàng, truyện không có cốt truyện cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo đã thể hiện một cách rõ nét niềm xót thương, cảm thông của tác giả với cuộc đời, số phận của những con người nơi phố huyện. Đồng thời, qua đó ông cũng thể hiện sự trân trọng ước muốn được đổi thay của họ.

Trong nhóm tự lực văn đoàn Thạch Lam sống một cuộc đời ngắn ngủi nhất, viết ít nhất nhưng tác phẩm của ông sống mãi với thời gian. Truyện ngắn Thạch Lam dù trải qua bao khắc nghiệt vẫn giữ nguyên giá trị và được nhiều bạn đọc tìm đến với một niềm say mê trân trọng. Hai đứa trẻ in trong tập nắng trong vườn(1938) sức hấp dẫn của truyện không chỉ ở nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, ở tấm lòng nhân hậu mênh mang ở giọng văn lắng đọng nhẹ nhàng mà đặc biệt còn ở ngòi bút khắc họa bức tranh phố huyện nghèo và tâm trạng của Liên.

Lấy ngày tàn làm nền và bóng tối làm gam màu chủ đạo, Thạch Lam đã khắc họa một bức tranh phố huyện nghèo. Câu chuyện được mở ra trong giờ khắc ngày tàn. Tiếng trống thu không điểm từng tiếng một trên cái chòi huyện nghèo, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve, mọi âm thanh dường như có nhỏ lại lịm dần đi thưa thớt. Âm thanh ấy hay chính là dấu vết còn lại của ngày tàn, nó gọi thời gian gọi buổi chiều bằng những nhịp chậm rãi. Phải chăng đó còn là nhịp đời trôi tù đọng của phố huyện nơi đây.

Điểm nhìn cho âm thanh xa vắng là phương tây đỏ rực như lửa cháy, áng mây hồng và những dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời. Hình ảnh ấy như báo trước một sự rơi rụng của ngày tàn sắp đến. Những câu văn êm dịu với nhịp điệu chậm rãi vừa giàu hình ảnh nhạc điệu vừa uyển chuyển tinh tế đã khắc họa một bức hạ đồng quê quen thuộc nhưng phảng phất một nỗi buồn bâng khuâng, man mác. Mỗi câu văn như một nét đơn sơ, không cầu kì kiểu cách đã gợi dậy được cái hồn của cảnh vật, cái thần thái của thiên nhiên.

Không chỉ đặt nhân vật vào những khoảng thời gian nhất định Thạch Lam còn đặt nhân vật của mình vào những không gian nhất định. Đó là không gian của một phiên chợ tàn ở một miền đời bị lãng quên. Chỉ bằng một vài nét phác họa chợ chiều hiện lên thật tàn tạ thê lương: nào là rác rưởi vỏ bưởi vỏ thị. Những người gánh hàng rong còn nán lại nói chuyện gì đó xong họ mới về. Trên mặt đất những tia sáng làm cho những hạt cát lấp lánh, hòn đá nào bên sáng bên tối làm nên một bức tranh tả cảnh tàn tạ của phiên chợ chiều.

Tất cả đều đi vao bóng tối đến nhường lại cho khu phố một cảm giác lãnh đạm hơn bao giờ hết. Thế rồi trên cái nền ấy những đứa trẻ con hiện lên thật đáng thương. Đó là mấy đứa trẻ nghèo đi nhặt nhạnh những thứ còn dùng được của buổi chợ để lại. chúng nhặt những thanh nứa thanh tre.

Liên thương xót nhưng hoàn cảnh của chị Liên cũng chẳng hơn chúng bao nhiêu. Trước cảnh tượng ấy không hiểu sao “ Liên thấy lòng mình man mác buồn”. Có lẽ cuộc sống đã biến cô từ một đứa trẻ vô tư thành một đứa trẻ suy tư. Chị em Liên ngồi kê chõng ra ngoài mà ngắm khu phố chuẩn bị lên đèn.

Có thể nói khung cảnh khu phố hiện lên vừa có cái gì đó thi vị, nên thơ đó là cái mộc mạc của khu phố huyện nhưng cũng tiêu điều và vắng vẻ. Nó gợi lên một miền đời trôi tù đọng với những hình ảnh tàn tạ đến thê lương, sự sống nơi đây như rơi rụng khi chiều tàn.

Chiều khép lại để nhường cho bóng tối của ban đêm, Thạch Lam diễn tả thật thi vị cái đêm mùa hạ ấy. Đó là một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Chị em Liên hãy còn ngồi trên chõng để nhìn ban đêm. Những cánh hoa bàng khẽ rung lên tóc liên và xuống chõng thật thi vị. thế nhưng trước sự thi vị ấy lại có một sự buồn không hề nhỏ. Tác giả xây dựng lên sự tương quan giữa ánh sáng và bóng tối để cho thấy cuộc sống nơi đây khi đêm về.

Ánh sáng nơi đây nào là khe sáng rồi lại “vòm trời hàng ngàn ngôi sao đua nhau lấp lánh” chị em liên nhìn lên như thấy cả ông Thần Nông trên đó. Vệt sáng của những con đom đóm. Thế rồi cả chấm sáng của lân tinh thoắt ẩn thoắt hiện, chấm lửa nhỏ, hột sáng từ ngọn đèn Liên, quầng sáng qua ngọn đèn hoa kì leo lét.

Tất cả những ánh sáng ấy đều được nói đến rất nhiều với mật độ dày đặc nhưng đó chỉ là những hạt, những khe ánh sáng mà thôi. Nó không thể nào xua đi bóng tối của buổi ấy, trong khi ấy bóng tối được tác giả chỉ dành cho mấy câu thôi nhưng nó đã lấn át hết những anh sáng kia. Đó là đường phố và những hình ảnh đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối “ Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, tất cả các con ngõ vào làng”.

Có thể nói Thạch Lam đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối. Sự có mặt của ánh sáng không xua được bóng tối trái lại nó còn làm nổ bật bóng tối. Sự tương phản ấy hay chính là biểu tượng cho những con người nơi đây khi sống kiếp người vô danh dưới màn đêm của xã hội thực dân phong kiến.

Trên nền bóng đêm ấy những cư dân kiếm sống ban đêm hiện lên và bắt đầu cuộc sống ban đêm của mình. Riêng chị em Liên thì được mẹ giao cho cái quán nhỏ ấy bán mấy thứ lặt vặt để kiếm thêm. Và xuất hiện đầu tiên trong bóng đêm ấy là mẹ con chị Tí. Mẹ con chị ấy ngày thì mò cua bắt ốc tối đến thì bán quán nước đến tận đêm khuya. Hai mẹ con chị chẳng bán được là bao nhưng đêm nào cũng dọn cũng bán đến tận đêm khuya mới thôi.

Tiếp theo là bác phở Siêu, nghề của bác lương khá cao nhưng lại có nguy cơ đáng sợ nhất. Vì ở đây phở bác Siêu là một món quà xa xỉ nhất. Góp mặt vào những cư dân sống trong bóng tối đó là gia đình bác Sẩm. Cả gia tài nhà bác chỉ có manh chiếu rách và một cái thau sắt đã lang ben. Bác chưa hát vì chưa có ai nghe, đứa con thì lăn ra đất nghịch cát, thỉnh thoảng bác góp một tiếng nhạc bàn bật trong đêm.

Không thể quên một nhân vật nữa đó là bà cụ Thi điên nghiện rượu. chiều nào cụ cũng đến nhà Liên mua rượu uống rồi cười khanh khách bước vào bóng tối với dáng vẻ lảo đảo. Tất cả những con người ấy hiện lên thật lam lũ vất vả. Trong đêm tối ấy họ vẫn mong chờ một điều gì đó tươi sáng hơn trong cuộc đời mình.

Thạch Lam không dùng một từ nào để miêu tả chân dung họ, không ai có một khuôn mặt một hình dáng, họ giống như một diễn viên trên sân khấu cuộc đời có thể đổi vai cho nhau nhưng không thể đổi phận cho nhau được. Và trong bóng tối tần ấy con người sống và hoạt động, có phải họ đang sống không hay là họ đang cầm cự sống?.

Tuy nhiên họ không mất niềm tin vào cuộc sống mà vẫn hi vọng một cuộc sống tươi sáng hơn. Đó là khoảnh khắc mà tất cả họ đều đang rất mong chờ- một chuyến tàu đêm đến. họ mong chờ vì điều gì?. Điều gì làm cho họ mong chờ đến như vậy?, nó khiến An dẫu buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức để đợi tàu đến. Cảnh tàu đến cả phố huyện như bừng sáng ánh sáng ấy phát ra từ những toa hạng sang trọng nhất. “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. ” Có thể nói chuyến tàu đêm đã mang lại ánh sáng cho phố huyện nơi đây. Thứ ánh sáng không hề bình thường mà nó là thứ ánh sáng thắp sáng niềm tin con người về một tương lai tươi sáng hơn.

Đối với những nhân vật kia thì họ mong tàu đến với mong ước là kiếm được thêm tiền khi tàu nghỉ và khách xuống. Còn đối với chị em Liên thì khác, liên không mong đợi bán thêm điều gì mà cô chỉ muốn ngắm đoàn tàu. Bởi vì nó là chuyến tàu từ Hà Nội về, nó giúp cô nhớ lại những ngày tháng khi gia đình còn giàu có, hai chị em Liên được bố dẫn đi bờ hồ ăn những que kem xanh đỏ. Có thể nói con tàu như một kí ức đẹp của Hà Nội trong hai chị em. Không những thế hai chị em cũng giống như những người dân nơi đây mơ ước một tương lai thật sự tươi sáng hơn.

Như vậy có thể thấy truyện ngắn Hai đứa trẻ đã mang đến cho chúng ta bức tranh toàn cảnh về cuộc sống của những người dân dưới chế độ thực dân phong kiến. chính cái xã hội ấy đã làm cho những con người ấy trở nên khốn khổ vất vả. Cuộc sống đối với họ giống như đang cầm cự vậy. biết rằng không ai mua nhưng vẫn cứ dọn ra và mong chờ. Có lẽ tác giả đã mang đến cho chúng ta những suy nghĩ trăn trở đối với những kiếp người ấy.

…………

Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Cảnh Thu Và Tình Thu Trong Bài Thơ Câu Cá Mùa Thu Dàn Ý &Amp; 7 Bài Văn Mẫu Lớp 11

A. Phân tích đề

– Yêu cầu: phân tích cảnh thu, tình thu trong bài thơ Câu cá mùa thu.

– Đối tượng, phạm vi đề bài: các câu thơ, từ ngữ, chi tiết, hình ảnh,… tiêu biểu trong phạm vi văn bản Câu cá mùa thu.

– Phương pháp lập luận chính : phân tích.

B. Hệ thống luận điểm

– Luận điểm 1: Phân tích cảnh thu

Sự thay đổi điểm nhìn

Cảnh thu tiêu biểu, đặc trưng nhất cho “mùa thu của làng cảnh Việt Nam”

Cảnh thu đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn

– Luận điểm 2: Phân tích tình thu (tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn thi nhân trước cảnh thu)

Tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên

Tấm lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.

C. Lập dàn ý chi tiết

I. Mở bài

– Đôi nét về Nguyễn Khuyến: được mệnh danh là nhà thơ số một về quê hương, làng cảnh Việt Nam

– Bài thơ Câu cá mùa thu là một trong số những bài thơ chữ Nôm tiêu biểu nhất của Nguyễn Khuyến khi viết về quê hương, làng cảnh đó. Bài thơ đem đến cho người đọc sự cảm nhận tinh tế vẻ đẹp cảnh thu và tình thu

II. Thân bài

1. Cảnh thu

a. Cảnh thu được khắc họa từ sự thay đổi điểm nhìn

– Bức tranh mùa thu được thu vào tầm mắt theo điểm nhìn thay đổi từ gần đến cao xa, từ cao xa trở về gần: từ “thuyền câu bé tẻo teo” trong “ao thu” đến “tầng mây lơ lửng” rồi quay trở về với thuyền câu, ao thu

b. Cảnh thu trong bài là bức tranh mùa thu tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất cho “mùa thu của làng cảnh Việt Nam”

Những nét đặc trưng nhất của mùa thu Bắc bộ được phác họa trong bức tranh mùa thu với đầy đủ màu sắc và đường nét:

– Màu sắc:

+ “trong veo” “sóng biếc”, “trời xanh ngắt”: màu sắc thanh dịu

– Đường nét, chuyển động:

Hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒sự chăm chú quan sát của tác giả

“khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế

Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”⇒ “cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”

– Sự hòa hợp trong hòa phối màu sắc:

+ Các sắc thái xanh khác nhau tăng dần về độ đậm: xanh màu “trong veo” của ao, xanh biếc của sóng, “xanh ngắt” của trời hòa với sắc vàng của lá ⇒ tăng thêm sự hài hòa thanh dịu

c. Cảnh thu được khắc họa đẹp nhưng tình lặng và đượm buồn

– Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu nhưng tĩnh vắng:

Ngõ trúc “khách vắng teo”: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng, làng quê ngõ xóm không có hoạt động nào của con người

Chuyển động nhưng là chuyển động rất khẽ: sóng “hơi gợn tí”, mây “lơ lửng”, lá “khẽ đưa” ⇒ không đủ sức tạo nên âm thanh

Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động rất khẽ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng

⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng

2. Tình thu (tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn thi nhân trước cảnh thu)

a. Tâm hồn yêu thiên nhiên, sự hòa hợp với thiên nhiên của con người

– Biểu hiện tình yêu thiên nhiên của tác giả:

Khả năng quan sát và cảm nhận sâu sắc những hình ảnh, đường nét, màu sắc của mùa thu

Sự cảm nhận được thực hiện bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác và thường là sự hòa trộn nhiều cảm giác

– Hình ảnh con người xuất hiện trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa gối buông cần”:

“ Buông”: Thả ra (thả lỏng) đi câu để giải trí, ngắm cảnh mùa thu

“Lâu chẳng được” : Không câu được cá

⇒ Đằng sau đó là tư thế thư thái thong thả ngắm cảnh thu, đem câu cá như một thú vui làm thư thái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với thiên nhiên, với mùa thu của làng cảnh Việt Nam của con người

b. Tấm lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha

– Đằng sau sự cảm nhận tinh tế về mùa thu của quê hương là tình yêu thiên nhiên. Sự hòa hợp với thiên nhiên cũng chính là một biểu hiện của lòng yêu nước

– Bức tranh mùa thu mang hồn dân tộc, vượt ngoài những khuôn sáo, ước lệ của thi pháp cũ không phải chỉ bởi tài năng mà còn bởi tình yêu đất nước của tác giả

– Hình ảnh người câu cá hững hờ trước việc câu cá ⇒ sự nặng lòng trước thế sự ⇒ nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương

3. Nghệ thuật khắc họa thành công cảnh thu và tình thu

– Bút pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong cảnh

– Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.

– Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công

– Cách gieo vần “eo” và sử dụng từ láy tài tình

III. Kết bài

– Khái quát lại những nét đặc sắc về cảnh thu và tình thu trong tác phẩm

– Liên hệ cảm xúc bản thân trước cảnh thu và tâm hồn tác giả

Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình thì Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Thật vậy thơ ông luôn tràn ngập những hình ảnh quen thuộc của làng quê đất nước ta. Nguyễn Khuyến làm quan được một thời gian thì trở về quê sớm hay chính là ông lui về ở ẩn. Sở dĩ như vậy là do ông chán ghét những ngang tai trái mắt khi quân ta bị Pháp xâm lược. Và chính quyết định đó đã quyết định đến sáng tác của nhà thơ, về ở ẩn nhà thơ cũng giống như bao nhà nho khác tìm đến thiên nhiên, làm bạn với thiên nhiên. Chính vì thế Nguyễn Khuyến được biết đến là một nhà thơ trữ tình của thiên nhiên làng cảnh Việt Nam. Có thể nói thơ ông không chỉ có cảnh mà còn có tình, cảnh đẹp bao nhiêu thì tình nặng bấy nhiêu. Đặc biệt hơn ông rất nổi tiếng với chùm thơ thu của mình, và tất nhiên trong chùm thơ ấy vừa có cảnh lại vừa mang đậm chất tình.

Trước tiên ta đi tìm hiểu và khám phá về cảnh thu trong thơ Nguyễn Khuyến. Thơ ông nhẹ nhàng đằm thắm, không ồn ào mà lặng lẽ đến bất ngờ. Sự im ắng của cảnh vật làm cho thơ thu của ông mang đầy màu sắc buồn bã, tĩnh lặng.

Cảnh thu hiện lên với những hình ảnh mùa thu ở làng quê Việt Nam đẹp một cách giản dị mà rất đỗi thơ mộng và thu hút lòng người. Cảnh thu hiện lên mang đầy nét thân thuộc mộc mạc, không gian làng quê hiện lên như:

Đó là một thiên nhiên thu đầy thân thuộc trong bài thơ thu điếu của tác giả, hình ảnh của làng quê hiện lên nên thơ nhưng cũng đẹp đến mộng mị trí óc của người ngắm nó. Cảnh vật hiền lành như khiến cho con người ta dẫu có độc ác, cáu giận đến đâu cũng nao lòng hiền đi để tâm hồn yêu thương quay trở lại. Hình ảnh thơ như “ao thu lạnh lẽo”, một chiếc thuyền rồi sóng khẽ gợn, một chiếc lá vàng lơ đãng đáp xuống mặt đất kia. Hay cả những hình ảnh thân thuộc như ngõ trúc, ao bèo lẳng lặng. Đó là toàn bộ hình ảnh thân thuộc mà tuyệt đẹp của cảnh thu Nguyễn Khuyến.

Không những thế cảnh thu với những hình ảnh của làng cảnh Việt Nam còn được Nguyễn Khuyến tiếp tục vẽ lên qua những câu thơ:

Những gian nhà những ngõ tối có sâu đóm lập lòe đầy màu sắc, nào giàn giậu, nào ánh trăng chiếu xuống dòng nước kia, rồi lại màu trời xanh ngắt trên cao. Tất cả những thứ ấy đều là những hình ảnh quen thuộc, và cũng chính những hình ảnh ấy đã làm nên một bức tranh thu đẹp. Thật khá khen cho câu: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”, một câu thơ hay và đẹp. thế nào là ánh trăng loe, có thể nói nó mang đầy sự gợi tả để cho người ta thỏa sức tưởng tượng trong trí óc về ánh trăng loe kia. Có thể là ánh trăng ấy chiếu xuống làn nước kia loe rộng ra tuyệt đẹp. Nói chung bức tranh thu của Nguyễn Khuyến luôn lấy tư những gì sẵn có của làng cảnh đất nước ta. Từ hình ảnh đến màu sắc, từ biện pháp nghệ thuật đến âm thanh trong bức tranh ấy đều thật sự rất tuyệt vời giản dị.

Trong bài thơ Thu vịnh cũng vậy:

Lại là trời, nước, trúc, trăng, giậu hoa… những thứ ấy một lần nữa được tác giả lấy thi liệu để làm nên tác phẩm của mình. Có lẽ ở trong cảnh nước non trời bể ấy Nguyễn Khuyến thấy yêu những thứ đó, những hình ảnh đó biết bao. Vì thế cho nên trong chùm thơ thu của ông những hình ấy được sử dụng rất triệt để và có hiệu quả. Tất cả làm nên một bức tranh thu đặc trưng cho làng cảnh Việt Nam.

Như vậy có thể thấy qua ba bài thơ thu khác nhau của Nguyễn Khuyến ta thấy được điểm chung trong sáng tác thơ thu của ông là lấy thi liệu từ những hình ảnh rất đỗi quen thuộc của làng quê nơi ông sống. những hình ảnh ấy mang đến vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của mùa thu Việt Nam.

Không những thế cảnh thu của Nguyễn Khuyến còn mang một điểm chung cũng như một nét đặc trưng cho mùa thu nước ta đó là nhẹ nhàng, tĩnh lặng những hình ảnh hay những âm thanh trong bài thơ đều rất nhẹ nhàng dịu dàng đậm chất thu Việt. Đến chuyển động của một chiếc lá cũng thật nhẹ nhàng và giàu sức gợi:

“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Mùa thu là mùa lá rụng nhưng cái sự rụng ấy cũng thật nhẹ nhàng. Chữ “vèo” làm cho người ta nhầm tưởng rằng lá rơi rất nhanh vèo một cái lá đáp mình xuống in vào mặt đất thế nhưng không phải thế. “Vèo” ở đây có nghĩa là lá khẽ chao nghiêng lượn vòng nhẹ nhàng rơi xuống. Hay là chuyển động nhẹ nhàng của tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Rồi cũng không chỉ có chuyển động những bức tranh thu nhẹ nhàng về màu sắc nào là:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”

Hay

Rồi nhẹ nhàng với gam màu xanh lạnh, tầng khói phủ và ánh trăng hiền huyền ảo:

Đó là đặc điểm thơ thu của Nguyễn Khuyến, vậy tình thu thì sao? Có thể nói chữ tình trong thơ thu của ông được bó gọn trong một từ “buồn”. Thu đặc trưng vốn dĩ đã buồn nhưng thu trong chính tác giả còn buồn hơn. Những hình ảnh của ba bài thơ thu mang đầy một nỗi buồn lớn, nó không chỉ là nhịp điệu, màu sắc, chuyển động buồn mà hình ảnh mang đầy tâm trạng. Những câu như “ngõ trúc quanh co khách vắng teo” hay “Mấy lão không vầy cũng đỏ hoe” rồi lại “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt – Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Không những thế lại còn có “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”. Chính những hình ảnh cũng mang đầy tâm trạng buồn, một cái buồn vu vơ vô cớ. Thế nhưng chính cái buồn vu vơ đó lại trở thành cái cớ trong tâm trạng của tác giả. Thật đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Chính vì tâm trạng của nhà thơ đang rất buồn và âu lo vì thế cho nên thiên nhiên mà ông đặt bút viết ra cũng rất buồn. Đó là cái buồn trước thực tại, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng nhà thơ vẫn không thể nào yên lòng trước những thay đổi của xã hội khi thực dân Pháp xâm lược. Nhà thơ lo cho nhân dân và ái ngại trước những áp bức bóc lột của bọn xâm lược với nhân dân ta. Nguyễn Khuyến luôn trách bản thân mình không thể làm gì giúp cho nhân dân đỡ khổ. Qua đó đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Như vậy có thể thấy thơ thu Nguyễn Khuyến không chỉ có cảnh đẹp mà còn có tình đẹp, cảnh đẹp bao nhiêu thì tình nặng bấy nhiêu. Cảnh ở đây là cảnh thu Việt Nam nhẹ nhàng dịu dàng với những hình ảnh quen thuộc của làng quê nhưng lại rất buồn. Tình ở đây chính là nỗi lòng của nhà thơ dành cho quê hương đất nước, dành cho những người dân Việt khi bị áp bức bóc lột. Chắc hẳn chính vì những tình, những cảnh ấy đã góp phần làm nên thành công và xứng đáng với danh hiệu nhà thơ của mùa thu dành cho Nguyễn Khuyến.

Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thư mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. (Ba bài thơ này, tác giả đã đặt tên cho chúng rồi, cũng như bố đặt tên con, không nên vì nhược điểm là tên đặt theo chữ nho, mà bây giờ lại tùy tiện thay đổi). Chúng đã được truyền tụng hàng trăm năm nay (đến năm 1971, Nguyễn Khuyến sinh ra đã 135 năm).

Được nhớ, thuộc, và truyền tụng vì là ba bài thơ hay và điển hình nhất cho mùa thu của Việt Nam, từ miền Bắc nước ta, chứ không ở nước nào khác. Tiêu biểu hơn cả, là bài Thu điếu (Mùa thu ngồi câu cá)

Đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở. Hàng vạn người đọc rất tinh, đã thuộc ba bài thu này, mà không thuộc được các bài thu khác (của các tác giả khác)…

Không còn những ước lệ văn hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng… mà bình dân, nhà cỏ thấp le te, tiến lên hiện thực rồi. Bài thơ này, theo tôi, không phải chỉ nói trong một thời điểm, là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời điểm, khái niệm, khái quát về cảnh thu. Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu logic. Câu thứ hai: Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe, phải là đêm sâu mới hay, mới ngỏ thật tối, đóm mới thật lập lòe; còn “đêm khuya” (theo như có bản chép), thì là từ 12 giờ đêm trở đi, chẳng bao hàm ý gì là tối cả, chỉ bao hàm ý muộn và vắng, đêm khuya với đom đóm chẳng đi gì với nhau, vả lại còn phải nghiên cứu thử xem đom đóm có chờ đến khuya mới bay ra, mới bay nhiều hay không? Mà đã “ngõ tối đêm sâu” thì mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Mặt khác, đưa Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt vào cảnh một đêm có trăng, thì không hợp, không điển hình gì cả. Trên mặt nước ao, mặt nước sâu lặng, thì điển hình là “Nước biếc trông như tầng khói phủ” kia, khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lăn dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu. Thơ chữ Hán của tác giả cũng có những câu:

Mặt nữa, “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” chắc hẳn không phải là trời một đêm trăng, mà phải là trời một buổi chiều. Vì thế cho nên bài này là khái quát, tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm. Nghĩ như thế rồi, chúng ta thấy bốn câu đi liền nhau (2, 3, 4, 5) về làng cảnh rất hay, nó hay trong cái thực của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chứ không bay đi đâu xa khác. Nhất là câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng tự mặt nước ao sáng loé ra, bốn chữ “l” khá nặng, (làn lóng lánh loe) gợi cho vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng lánh bóng) gợi ánh bắn đi. Từ loe với âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe), như cái ao chẳng hạn. Lịch sử văn học thế giới, qua mấy nghìn năm, đã biểu dương từng câu thơ một của các nhà thơ có tài. Một câu thơ của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc Việt Nam như thế, là một câu thơ hiếm có.

Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. Trời thu rất xanh rất cao toả xuống cảnh vật. Cây tre Việt Nam ta, những cây còn non, ít lá, thanh mảnh cao vót như cái cần câu in lên trời biếc, gió đẩy đưa khe khẽ, thật là thanh đạm, hợp với hồn thu. Song thưa để mặc bóng trăng vào cũng thuộc về trời cao; Một tiếng trên không ngỗng nước nào cùng nói về trời cao, gợi sự xa xăm, gợi cái bâng khuâng về không gian. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái gợi cái bâng khuâng man mác về thời gian. Nước biếc trông như tầng khói phủ gợi niềm bay bổng nhẹ nhàng và mơ hồ như hư như thực. Cả khung cảnh mùa thu thanh thoát ấy dần đến ý hai câu kết: – Sao ta còn bị buộc chân ở đây, sa lầy trong vòng danh lợi ố bẩn phi nghĩa này? Sao ta chưa trả mũ từ quan luy khứ như Đào Uyên Minh, cho nhẹ nhõm trong sáng?

Bài Thu vịnh có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (ở Bắc Bộ), có về thăm “Vườn Bùi chốn cũ – đây là “xứ Vườn – Bùi” theo đồng bào gọi cả vùng Trung Lương nằm trong xã Yên Đổ cũ, chứ không phải chỉ là khu vườn của nhà ở cụ Nguyễn Khuyến – mới càng hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Sao lắm ao thế! Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợi rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió, bay bay xoay xoay rồi rơi xuống xa xa một cách khẽ khàng. Khung ao tuy hẹp vậy, nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian.

Nhìn lên: trời thu xanh cao đám mây đọng lơ lửng; trong quanh: các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất, chạy ngoắt ngoéo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại; mọi người ra đồng làm cho nên làng vắng teo. Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài, như con gà ngon, ngon ở từng phao câu đầu cánh lắt lẻo khuỷu xương, không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ; không phải chỉ giỏi vì là những tứ vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu ba, bốn;

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

đối với:

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí. Quá trình ngôn ngữ của thơ đi, từ đời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề: Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch. Đến Nguyễn Khuyến đã thành ra: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa. Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện, khổ luyện qua những thời đại, hoặc là khổ luyện trong một người. Các bạn mới làm thơ nên khái niệm được thế nào là sự “đắc đạo” trong Sĩ nghệ thuật ngôn từ.

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, nhìn gộp chung lại, là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam; trên đất nước ta, và dân tộc hóa hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là nôm, là Việt Nam: mà ở đây, dân tộc hóa cùng thống nhất với quần chúng hóa.

Ba bài thơ mùa thu hay vì Nguyễn Khuyến là một thi sĩ có tài. Nhưng cần một điều kiện nữa: là nhà thơ có tài ấy phải gắn bó, thâm nhập, hòa tâm hồn mình một cách sâu sắc, thấm thía với đất nước Việt Nam. Nhà thơ ấy phải sống như Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến khi sinh ra, lớn lên, khi là học trò cho đến lúc thi Hương, đã sống ở làng mạc, giữa đất nước ruộng đồng. Ông đi làm quan khoảng 12 năm. Từ khi ông về hưu (1884) đến năm ông mất (1909), ông lại trở về 26 năm ở với làng ruộng. Có sách tính ra ông đã sống ở làng quê đồng ruộng trước sau tất cả là bốn mươi ba năm. Hoàn cảnh sinh sống tác động lâu dài vào xúc cảm của hồn thơ, tạo thành một thứ bản chất.

Trời vào thu với màu sắc thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi, não nề. Mùa thu có lẽ làm cho người ta bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu tuyệt vời ngập tràn trong những trang thơ của bao thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến – một bức tranh mùa thu mà Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.

Tiếp xúc với bài thơ điều đầu tiên cho ta ấn tượng là mật độ xuất hiện vần “eo” trong bài thơ. Chúng ta hãy đếm xem: có tất cả bảy tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để ý khảo sát trong tiếng Việt thì ta sẽ phát hiện ra một điều thú vị là vần “eo” trong ngôn ngữ của ta thường làm cho không gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái khuôn khổ nhỏ nhất của nó. Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong nó lại càng lạnh thêm trong cái từ “lạnh lẽo” ấy. Nước hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa bởi từ “trong veo”. Khoảng trống rộng lớn làm cho chiếc thuyền câu nhỏ bé lại càng nhỏ bé thêm khi nó được tác giả thấy rằng “bé tẻo teo”. Hình ảnh “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Trở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá. “Khẽ đưa vèo” câu thơ có cấu trúc động từ thật là lạ, làm cho ta thấy dường như tiếng rơi ấy nó không là hiện thực mà nó đang diễn ra trong tâm thức của nhà thơ. Chiếc lá ấy của nhà thơ làng Yên Đỗ và Trần Đăng Khoa như là ảo ảnh. Trong cái ảo ảnh đó, người đọc và cả tác giả dường như không kiểm soát kịp nó có thật hay không nữa. Bức tranh mùa thu đến đây khẽ lay động dưới nét phác họa của nhà thơ.

Qua hai câu đề của bài thơ bức tranh mùa thu không được đặt trong không gian rộng lớn như ở “Thu vịnh” mà nó bị giới hạn lại trong cái phạm vi nhỏ bé của “ao thu”. “Ao thu” hai tiếng ấy có vẻ gì đó là lạ, đặc thù. Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng minh sự nhỏ bé khác thường của nó.

Toàn bộ khung ảnh được vẽ lên như một bức tranh tí hon có thể đặt trọn trong lòng bàn tay ta vậy. Nó có một cái gì đó ngồ ngộ, dễ thương và cuốn hút lạ thường. Nó thu tóm toàn bộ không gian, làng cảnh Việt Nam im lìm, vắng lặng nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt.

Đến đây không gian được mở rộng ra, nhà thơ đã di chuyển điểm nhìn từ khoảng gian nhỏ bé của “ao thu” hướng về không gian lớn của bầu trời. Ở đấy nhà thơ bắt gặp:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”

Cái động từ “lơ lửng” như gợi cho ta một cảm giác về một chuyển động mà ngỡ như là đứng yên. Những đám mây mùa thu như khẽ nhích từng tí một, bồng bềnh trong bầu trời thu xanh ngắt. Cái chuyển động của chiếc thuyền câu cũng vậy, nó như hơi khẽ lắc trong sóng nước mùa thu.

Trở lại câu thơ:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”

Ta thấy nó có một cái gì đó dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” xuất hiện làm cho cảnh vật nó như mơ hồ, khó mà nắm bắt được. “Hơi gợn tí” nó gợi lên trước mắt chúng ta một hình dáng của sóng. Nó không ồn ào dữ dội như sóng biển mà có nó lăn tăn lan ra trên mặt hồ. Bức tranh mùa thu như trầm mình trong cái yên ả, tĩnh mịch ấy.

Advertisement

Có một câu châm ngôn cho rằng: không có một vẻ đẹp xuất sắc nào mà không mang đôi nét kì quặc. Cho nên câu thơ:

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt nhưng bức tranh mùa thu ở đây vẫn có một nét đẹp rất nên thơ, bình yên và trong sáng. Con người nhà thơ ở đây có phần nào lộ diện hơn:

Thế câu “Tựa gối ôm cần” thật lạ. Nó như thú nhận rằng nhà thơ đang lo nghĩ về một việc gì đó rất dữ dội, nó như đang giằng xé lấy ông. Phải chăng đó chính là nỗi buồn thời cuộc, nỗi buồn mà đến cuối đời nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được phần nào. Kết thúc bài thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật hơi thật mạnh của cụm từ “đâu đớp động”. Tạo ra một nét đối nghịch trong bài thơ: Cảnh vật ở trên được miêu tả là một bức tranh tĩnh lặng đến hoang vắng thì đến cuối bài thơ nó như bắt đầu tiếp nhận được sức sống, bức tranh như sinh động hẳn lên. Nhưng nó lại cũng khiến cho bài thơ im ắng vô cùng. Ba tiếng “đâu đớp động” chõi lên một chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần “eo”. Cách sử dụng nghệ thuật, dùng cái động để diễn tả cái tĩnh làm cho cảnh vật trong bài thơ càng vắng lặng hơn, nỗi buồn như bao trùm cả một khung cảnh rộng lớn.

Bài thơ còn mang trong nó một sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của lá cây, của nước mùa thu. Tất cả như hòa quyện vào nhau làm cho bài thơ tạo nên một bức tranh hài hòa cân đối, có một màu sắc rất riêng của Việt Nam. Một chiếc lá vàng đâm ngang tô thêm cho bức tranh mùa thu một vẻ đẹp mới lạ.

Đọc “Câu cá mùa thu” ta càng yêu thêm non sông xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa thu đậm chất vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Nam trong bao biến động xô bồ của cuộc đời này. Có cần chăng nhiều lúc lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức “Thu điếu” để thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương đất nước, yêu tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp này hơn nữa …

Nguyễn Khuyến là người học rộng, tài cao, nhưng ông chỉ ra làm quan hơn mười năm rồi trở về quê hương dạy học. Ông để lại sự nghiệp sáng tác phong phú hơn hơn 800 bài chủ yếu là thơ , trên cả mảng thơ chữ Hán và chữ Nôm. Một đề tài khá quan trọng trong sáng tác của ông là thơ viết về làng quê và một trong những bài thơ đó không thể không nhắc đến là bài Câu cá mùa thu.

Bài thơ nằm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến bao gồm ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Cả ba bài thơ đều được sáng tác trong thời gian tác giả lui về ở ẩn tại quê nhà. Bài thơ Câu cá mùa thu là bức tranh thiên nhiên mùa thu đẹp đẽ với cả cảnh thu và tình thu sâu sắc.

Đến với Nguyễn Khuyến, nhà thơ sử dụng hình ảnh ước lệ hết sức quen thuộc của thơ cổ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Lấy điểm nhìn từ một chiếc thuyền câu trên ao nhỏ, bức tranh mùa thu được mở ra nhiều hướng. Không gian mùa thu trở nên khoáng đạt, rộng rãi giúp tác giả cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của mùa thu. Đó là cảm nhận bằng xúc giác với cái “lạnh lẽo” của nước ao thu, cảm nhận bằng thị giác khi thấy cái trong veo của làn nước. Thu về nước không còn đục như vào những ngày hè oi nóng, đi cùng những cơn mưa rào đột ngột. Thu về mọi vật trở nên bình tĩnh, lặng lẽ hơn, dòng nước thôi cuộn trào, màu nước thổi đỏ mà thay vào đó là sắc trong veo có thể nhìn thấu xuống đáy. Trong khuôn viên của chiếc ao nhỏ, những làn “sóng biếc theo làn hơi gợn tí”. Hình ảnh sóng biếc chỉ khẽ gợn cho thấy sự tĩnh lặng hoàn toàn của không gian. Dường như con người có thể nghe thấy những tiếng động nhỏ bé nhất của sóng.

Không gian tiếp tục được mở rộng, tác giả hướng mắt lên bầu trời và cảm nhận thu thiên xanh ngắt: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” . Câu thơ cho thấy độ cao thăm thẳm của bầu trời, và gợi nên sự êm dịu, thanh bình, màu xanh đậm trong trẻo khiến cho bầu trời càng trở nên cao rộng và khoáng đạt hơn. Khung cảnh được điểm thêm sắc vàng của chiếc lá: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. Chiếc lá vàng mỏng manh, bé nhỏ, nhẹ (khẽ đưa) nhưng chỉ với chút vàng ấy thôi đã cho thấy một mùa thu thật êm, thật dịu của khung cảnh. Những hình ảnh thơ bình dị, thân thuộc, không chỉ thể hiện cái hồn của cảnh thu mà còn thể hiện cái hồn của cuộc sống ở nông thôn xưa.

Trong không gian thu đó hình ảnh con người xuất hiện thật ít ỏi với khách nơi ngõ vắng teo. Hay cuối bài con người xuất hiện trong dáng ngồi thu mình, bất động, có chút thờ ờ, bởi đi câu cá mà dường như không hề quan tâm đến chuyện câu ta. Bút pháp lấy động tả tĩnh tài hoa: sóng – hơi gợn tí, lá – khẽ đưa vèo, tâng mây – lơ lửng, câu thơ cuối có một tiếng động duy nhất: “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” không phá vỡ không gian tĩnh lặng mà ngược lại nó càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Cảnh thu dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến hiện lên thật đẹp đẽ, nên thơ mà cũng vô cùng thanh tịnh, yên ắng đặc trưng của làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ.

Bức tranh thu đã hé mở tình thu của người trong cảnh. Đó là tâm trạng u hoài, một tâm hồn yên tĩnh, một cõi lòng vắng lặng mênh mang thăm thẳm và một nỗi cô đơn trống vắng. Tình thu ấy được thể hiện qua: gam màu xanh ngắt của bầu trời, sắc vàng của chiếc lá khẽ đưa trước gió. Đặc biệt hai câu luận ẩn chứa cả nỗi niềm, tâm sự kín đáo của một nhà nho. Hai câu thơ cuối cùng trở về đúng với nhan đề “Câu cá mùa thu” khi khắc họa hình ảnh người đi câu và hé mở tâm trạng của nhà thơ. Đi câu mà dáng ngồi bó gối bất động trong lòng thuyền “tựa gối buông cần”như hóa thạch trong thời gian và không gian, mà thờ ơ hững hờ với tiếng cá đớp mồi “cá đâu đớp động… ”. Người đi câu song lại không để tâm đến chuyện câu cá bởi có lẽ đi câu chỉ là cái cớ để suy tư, ngẫm ngợi về cái vèo trôi của thời thế đổi thay… Vần “eo” thuộc loại tử vận hết sức oái oăm được sử dụng một cách thần tình góp phần diễn tả một không gian thu nhỏ, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc của một bậc trí ẩn.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình giúp diễn tả những tâm sự, nỗi niềm của tác giả trước thời thế. Sử dụng ngôn ngữ tinh tế, điêu luyện: tài năng ngôn ngữ bậc thầy đã diễn tả những biểu hiện tinh tế của cảnh vật, những uẩn khúc thầm kín khó giãi bày của tâm trạng. Kết hợp giữa bút pháp nghệ thuật cổ điển (bút pháp tả cảnh ngụ tình, hệ thống hình ảnh ước lệ, bút pháp lấy động tả tĩnh…) với những sáng tạo riêng (hình ảnh đời sống quen thuộc, ngôn ngữ đời sống…).

Bằng những nét bút tài hoa, ngôn ngữ giản dị mà hàm súc đã phác họa bức tranh vô cùng đẹp đẽ, tiêu biểu cho làng cảnh Việt Nam, qua đó còn cho thấy tình yêu thiên nhiên của tác giả. Đồng thời tình thu cũng đã giãi bày tâm trạng, tâm sự sâu kín của Nguyễn Khuyến với thời thế.

Thiên nhiên bốn mùa xuân, hạ, thu, đông từ bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng dào dạt cho các nhà thơ trung đại với bút pháp cổ điển và những hình ảnh ước lệ, tượng trưng. Nhưng đến Nguyễn Khuyến một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học trung đại ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX. “Lần đầu tiên nông thôn Việt Nam mới thực sự đi vào văn học”, thiên nhiên trong hồn thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ mang những nét bình dị, giản đơn ở chốn thôn quê. Đặc biệt khi viết về đề tài mùa thu, tiêu biểu là bài thơ “Câu cá mùa thu” đã tái hiện thành công cảnh thu của làng quê Bắc Bộ, đồng thời cũng thể hiện được tình thu và tình cảm của thi sĩ ẩn sau những vần thơ.

Cảnh thu trong “Câu cá mùa thu” hiện lên với những hình ảnh rất giản dị, mộc mạc của làng quê:

Không gian được mở ra trước tầm nhìn của người đọc là “Ao thu” – đặc trưng của cùng vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ nước trong veo, nổi bật trên nền cảnh ấy là “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” càng làm cho sự nhỏ bé trở nên cô liêu, yên tĩnh. Cảnh vật của nơi đây cũng là những sự vật rất nhỏ bé với những chuyển động khẽ khàng con sóng trên mặt nước chỉ hơi gợn tí, lá vàng khẽ đưa trong gió. Chữ “vèo” khiến cho ta liên tưởng đến câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Người đọc như cảm nhận, như chạm tay, như nhìn thấy chiếc lá đa rơi nhẹ trên thềm. Cũng như vậy hình ảnh chiếc lá vàng “rơi nghiêng” một cách duyên dáng trước gió thu. Mở rộng ra là không gian hai chiều, không gian của bầu trời. Bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là biểu tượng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng viết:

Bầu trời thu trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến như có sự đồng nhất với nhau “Thu vịnh” là (Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao) hay trong “Thu ẩm” với (Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt). Mây trời trong “Thu điếu” không trôi mà “lơ lửng” gợi một cảnh thu đẹp và yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng không bao la, rộng lớn (Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt). Không chỉ vậy mà nhà thơ còn tả chiều sâu hun hút của không gian bằng hình ảnh “ngõ trúc quanh co”. Cảnh thu được đón nhận từ các điểm nhìn khác nhau khi thì từ gần đến xa, khi thì từ trên cao, xa đến gần, đan xen giữa thực và ảo, động và tĩnh, lấy điểm tả diện, trong thơ có họa… khiến sắc thu thật sinh động, có hồn.

Màu sắc chủ đạo của mùa thu trong con mắt của thi nhân họ Nguyễn là một màu xanh của nước ao trong veo, của bầu trời xanh thẳm hay là màu xanh mướt của lá trúc ven đường điểm tô thêm sắc vàng của lá mùa thu làm cho bức tranh thu trở nên có thần in dấu trong tâm, trong trí của người đời.

Cảnh thu đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn biết bao. Tác giả đã thành công với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, khắc họa hình ảnh thiên nhiên cùng với cách gieo vần “eo” tài tình. Cách miêu tả của Nguyễn Khuyến vừa mang nét cổ điển vừa hiện đại có tính sáng tạo, mới mẻ chứa đựng tâm hồn của cảnh vật và con người, tạo nên sự hòa phối, đồng điệu giữa cảnh với người. Cổ điển trong thi liệu, đề tài và hình ảnh ước lệ như thu thiên (Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt), thu thủy (Ao thu lạnh lẽo nước trong veo) và thu diệp (Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo). Nhưng những hình ảnh ấy đem đến cho cảnh thu nét vẽ hiện thực, gần gũi đời thường hơn cũng là thu thủy nhưng đó là cái ao làng của vùng quê chiêm trũng Bình Lục. Cũng là lá thu rơi nhưng nó mang cả nỗi niềm, tâm trạng u sầu của tác giả.

Ẩn đằng sau những vần thơ là tâm sự của một nhà nho, nhà thi sĩ yêu nước nhưng bất lực trước thời cuộc. Thời đại của Nguyễn Khuyến sống là thời đại của những rối ren khi thực dân Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt để vận mệnh dân tộc và con dân đất nước rơi vào tay giặc. Nguyễn Khuyến đã gián tiếp phê phán cái triều đình tay sai, bù nhìn trong bài “Lời người vợ hát phường chèo”:

Chính hoàn cảnh ấy khiến cho ông_một vị quan yêu nước thương dân mà bất lực trước thời thế quyết lựa chọn cho mình con đường lánh đục về trong noi gương tiền nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Hai câu thơ cuối là hình ảnh người đi câu xuất hiện trong tư thế ngồi bó buông cần thả câu:

Đó cũng chính là tâm sự, là nỗi niềm thầm kín của nhà thơ trước thời cuộc. Tác giả đi câu mà chẳng chú tâm vào việc câu ngược lại đã thả hồn mình ở nơi nào để tìm sự thư thái trong tâm hồn khiến cho thi nhân giật mình trước chuyển động nho nhỏ của tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Tiếng cá đớp động chân bèo đã tiếp thêm động lực cho người điếu ngư không nản chí mà tiếp tục công việc của mình. Âm thanh ấy như đánh thức nhà Nho, nhà trí sĩ yêu nước thức tỉnh, thôi thúc ông đứng lên đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhưng nó cũng thật mơ hồ cũng như trăn trở trong lòng nhà thơ liệu rằng mình có thể góp sức giúp đời hay là bất hợp tác với giặc để lánh mình ẩn cư.

Với đặc trưng của văn học trung đại thơ là để bày tỏ tình cảm “thi dĩ ngôn chí”, làm thơ là mượn ngoại cảnh bên ngoài để nói tâm cảnh bên trong con người “tả cảnh ngụ tình”. Nguyễn Khuyến miêu tả bức tranh mùa thu vừa là thể hiện tài năng tuyệt bút của mình, thể hiện tình yêu thiên nhiên ông phải là một con người có cái nhìn tinh tế và những rung động thật sâu sắc trước ngoại cảnh mới có thể vẽ nên một bức tranh thu hữu tình với chất liệu ngôn từ của văn chương. Nhưng cũng vừa là để kín đáo bày tỏ nỗi buồn trong sáng nhưng cô đơn của một ẩn sĩ, tuy nặng lòng yêu nước nhưng cam phận đành bất lực trước thời thế lựa chọn cuộc sống ẩn dật.

Cảnh thu và tình thu trong bài thơ “Câu cá mùa thu” đã được thể hiện thật tài tình dưới ngòi bút của nhà thơ được xem là “bậc quán quân về tả cảnh mùa thu”. Cảnh thu của làng quê Bắc Bộ được tái hiện rõ nét với những đặc trưng riêng của nó để tác giả gửi gắm tâm sự, tình thu của lòng mình. Bài thơ cùng với những giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đã đạt đến mức cổ điển và dân tộc hóa cao độ góp phần làm phong phú thêm cho mùa thu của non nước và thơ ca Việt Nam.

Nguyễn Khuyến là người đã có công đưa văn học về với cội nguồn dân tộc, làng quê, với đời sống thường nhật của người dân đói nghèo, lam lũ…, tạo nên những sáng tác giàu tính cách tân và có giá trị lâu bền trong đời sống văn hoá dân tộc. Có thể nói, Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Có rất nhiều nhà thơ tả cảnh làng quê, nhưng tác phẩm của Nguyễn Khuyến là nổi bật nhất. Đặc biệt thiên nhiên trong “Thu điếu” được cho là đỉnh cao trong văn học Việt Nam.

“Thu điếu” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, mang đậm thi pháp thời cổ, mùa thu hiện lên với đầy đủ nét đạo mạo cũng như sự bình dị của nông thôn Việt Nam. Hai câu đầu là những nét chấm phá đầu tiên về miền quê bắc bộ:

Nhà thơ chọn hình ảnh ao thu là sự vật đầu tiên được miêu tả. Mùa thu ở miền Bắc được đặc trưng bởi cái se lạnh của sáng sớm, là sự dung hòa giữa mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh cắt da cắt thịt. Ở đây nhà thơ sử dụng tính từ “lạnh lẽo” là vừa đủ để miêu tả cái lạnh của thu, se se lạnh. Ngoài ra tính từ “lạnh lẽo ở đây cũng nhằm miêu tả sự trống vắng của cảnh vật, ao thu tĩnh mịch không người qua lại. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nhỏ hẹp của chiếc ao.

Trên ao thu lạnh lẽo, xuất hiện hình ảnh của một con thuyền:

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Thuyền là hình ảnh đặc trưng cho miền quê Bắc Bộ, hình ảnh của một con thuyền chơi vơi trên chiếc ao nhỏ bé vừa gọi tả về sự yên bình, đồng thời càng thu hẹp không gian với sự cô đơn. Số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu và trong tận đáy.

Hai câu thơ thể hiện khả năng sử dụng từ đỉnh cao của nhà thơ, khi khiến ta ngỡ như câu thơ đang mở ra một khoảng không vô tận, khi lại thấy không gian ngày càng thu hẹp và nỗi cô đơn ngập tràn. Nhà thơ chỉ lựa chọn một vài hình ảnh đặc trưng của mùa thu để miêu tả:

Các tính từ được sử dụng đều chỉ sắc thái tĩnh lặng, dường như mọi âm thanh dù là nhỏ bé nhất cũng được thu vào trong đôi tài sắc bén của nhà thơ. Câu thơ tác động vào cả thị giác lẫn xúc giác. Hình ảnh sóng biếc mập mờ trong làn sương như vẽ ra cảnh thu lắng đọng, thơ mộng, đồng thời khiến người đọc cảm nhận được cái lạnh trong chính làn hơi đó. Đó là sự chuyển động “ hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao.

Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc” , ‘tí’ , “vàng”, “khẽ”, “vèo” được sử dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã, có xanh có vàng. Hình ảnh lá vàng là đặc trưng cho mùa thu, Xuân Diệu đã có những câu thơ:

Nay lại xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến như một nét chấm phá đặc biệt

Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục miêu tả cảnh thu vắng lặng và không kém phần đẹp đẽ:

Điểm nhìn của nhà thơ thay đổi liên tục khi gần khi xa để có thể thu vào tầm mắt trọn vẹn cảnh thu hữu tình. Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Chính nhà thơ cũng từng viết:

Nhà thơ đã rất thành công khi miêu tả mùa thu Bắc Bộ với cảm thức của một thi sĩ, thu nhìn qua con mắt thi nhân không mang vẻ tầm thường của nhân thế mà tựa như thiên đường chốn bồng lai tiên cảnh.

Hai câu thơ cuối, hình ảnh con người xuất hiện:

Mùa thu câu cá, chẳng còn thú vui nào tao nhã hơn như thế. Vẫn không gian vô cùng tĩnh mịch, có thể nghe được cá tiếng cá động dưới hồ ao đã làm nổi bật lên được sự cô đơn trống vắng của chính thi sĩ. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu.

Trong cái cô đơn tĩnh mịch ấy, ta lắng nghe được âm thanh của cuộc sống yên bình, âm thanh bình yên trong tâm hồn của kẻ đang câu cá, không thế sự, không lao xao chốn quan trường. Người và cảnh như hòa làm một, như thể có một sợi dây kết nối đặc biệt mà chỉ có thi sĩ mới có thể cảm nhận được.

Quả không sai khi cho rằng, Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọng lại trong những vần thơ là hơi thở của cuộc sống Bắc Bộ, đẹp nao lòng và tràn đầy tình ý. Nguyễn Khuyến đã làm sống dậy chất thơ trong hồn thiên nhiên.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng Của Xuân Diệu (Dàn Ý + 19 Mẫu) Phân Tích Vội Vàng Đoạn 1 trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!