Bạn đang xem bài viết Top 7 Các Loại Cây Thuốc Nam Quý Có Tác Dụng Chữa Bệnh Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Cà gai leo còn được gọi là cà gai dây, cà vạnh, cà quýnh, cà lù,…có tên khoa học là Solanum procumbens. Cà gai leo có tác dụng ổn định, tăng cường chức năng gan. Rễ cây có chứa ancaloit, glycoancaloit,… giúp ngăn chặn quá trình xơ gan, kìm hãm và làm âm tính vi rút viêm gan.
Bạn có thể dùng cà gai leo sắc nước uống hằng ngày hoặc dùng các loại thực phẩm chức năng được chiết xuất từ cà gai leo.
Giảo cổ lam có tên khoa học là Gynostemma pentaphyllum, còn có tên gọi khác là thất diệp đảm, ngũ diệp sâm,…
Giảo cổ lam giúp ổn định huyết áp, ngăn ngừa xơ vữa động mạch, tai biến. Bên cạnh đó, nó còn giúp ăn ngon miệng và ngủ ngon giấc hơn, giúp bệnh nhân sau phẫu thuật nhanh phục hồi. Nó còn có tác dụng giảm đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường, giúp giảm các biến chứng do bệnh tiểu đường gây ra và tăng hệ miễn dịch của cơ thể.
Cây đan sâm hay còn gọi là huyết sâm, xích sâm, huyết căn,… có tên khoa học là Salvia miltiorrhiza Bunge. Đan sâm phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ẩm và cận nhiệt đới.
Đan sâm có khả năng làm giãn động mạch vành, tăng dòng máu và ngăn ngừa thiếu máu cơ tim. Nó còn được dùng để chữa phong thấp khớp sưng tấy, thần kinh suy nhược, nhức đầu, mất ngủ, ngăn ngừa xơ vữa mạch, chống oxy hóa, chống viêm.
Hà thủ ô có 2 loại là hà thủ ô đỏ và hà thủ ô trắng, có tên khoa học là Polygonum multiflorum Thunb. Hà thủ ô phân bố rộng rãi ở các nước cận nhiệt đới và nhiệt đới.
Hà thủ ô đỏ là một vị thuốc bổ, giúp điều trị suy nhược thần kinh, ích huyết, khỏe gân cốt, đen râu tóc. Trong hà thủ ô đỏ có chứa lecithin, có tác dụng bổ tim, giúp cải thiện chuyển hóa chung, anthraglycosid trong hà thủ ô đỏ giúp kích thích tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng.
Hà thủ ô trắng có tên khoa học là Streptocaulon juventas, có vị đắng, tính mát, có tác dụng bổ máu bổ gan thận. Hà thủ ô trắng còn có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tăng cường hoạt động của hệ đường ruột, giúp lợi tiểu, an thần nhẹ, hạ nhiệt cơ thể, tăng cường sức khỏe, tăng cân.
Sâm cau có tên khoa học là Curculigo orchioides gaertn, mọc nhiều ở các tỉnh phía Bắc nước ta.
Sâm cau hỗ trợ điều trị yếu sinh lý, thần kinh suy nhược, giúp bạn tăng cường chức năng sinh lý của nam và nữ giới. Nó còn giúp bổ thận tráng dương, kiện gân cốt, tăng cường sức khỏe.
Cây mật gấu còn gọi là hoàng liên ô rô, mã hồ. Cây mật gấu có tác dụng hỗ trợ điều trị các triệu chứng về bệnh rối loạn tiêu hóa, đường ruột, đau nhức xương khớp, tê thấp.
Bên cạnh đó, nó còn giúp mát gan, phòng và chữa sỏi mật, giảm đau lưng và thấp khớp, tiêu mỡ, viêm đại tràng, giã rượu. Khi dùng lâu dài, nó còn giúp chữa bệnh béo phì và bệnh gút.
Cây ráy gai có tên khoa học là Lasia spinosa, còn có tên khác là sơn thục gai, rau mác gai, rau chân vịt,… Ở Việt Nam, ráy gai phân bố ở khắp các vùng đồng bằng, trung du và núi thấp.
Ráy gai dùng để chữa ho, đau bụng, phù thũng, tê thấp, lưng, đầu gối đau, bàn chân tê buốt, suy gan. Thân rễ ráy gai có vị cay, tính ấm, có tác dụng tiêu đờm, trừ suyễn như vị bán hạ và thanh nhiệt, giải độc.
Chọn mua mật ong nguyên chất tại chúng tôi để trị ho:
Cây An Xoa Có Tác Dụng Gì Và Có Chữa Được Bệnh Gan Không?
Cây an xoa hay còn gọi là cây dó lông, tổ kén cái, thâu kén lông (tên khoa học là Helicteres hirsuta Lour), là một cây thân gỗ nhỏ, mọc thành cụm, cao khoảng 1,5m.
Trước đây, loại cây này mọc dại ở ven rừng, đồi núi, được phát hiện nhiều ở Lào, Campuchia. Ở Việt Nam, cây an xoa phân bố rộng rãi ở các tỉnh Sơn La, Lào Cai, Bình Phước,…
Advertisement
Cây an xoa có hai loại:
Cây an xoa hoa tím: lá thuôn nhỏ, phiến lá dày, răng cưa Hoa mọc sát nách lá, có màu tím, quả có lông như con sâu róm, khi chạm tay vào rất ngứa. Có tác dụng chữa các bệnh về gan.
Cây an xoa hoa trắng: Phiến lá tròn và to gấp đôi lá của cây hoa tím. Hai mặt lá không có lông, hoa màu trắng đục. Không được dùng để trị bệnh như cây hoa tím.
Hiện nay, cây an xoa hoa tím được sử dụng nhiều hơn vì có nhiều dược tính trị bệnh hơn.
Cây an xoa là một loại dược liệu có rất nhiều công dụng tốt đối với sức khỏe, có vị giống trà, có mùi thơm nhẹ, có thể uống như nước trà hằng ngày.
Theo một số nghiên cứu cho thấy trong cây an xoa chứa các hoạt chất như tiliroside, lupeol, stigmasterol, apigenin, flavonoid, alkaloid, một số enzyme và các nguyên tố vi lượng khác. Nhờ đó, cây an xoa có tác dụng:
Hỗ trợ điều trị các bệnh lý về gan.Theo chuyên trang bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, cây an xoa giúp hỗ trợ điều trị xơ gan cổ trướng, viêm gan B, viêm gan C, men gan cao, suy giảm chức năng gan hoặc làm mát gan.
Kiểm soát cân nặngTheo chuyên trang bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, nhờ quá trình cân bằng trao đổi chất cũng như tính nhuận tràng làm giảm mỡ thừa, mỡ bụng hiệu quả.
Điều trị, phòng ngừa cao huyết ápUống an xoa thay trà sẽ giúp huyết áp được duy trì ổn định và tránh được nhiều biến chứng như tai biến mạch máu não, xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim…
Hỗ trợ điều trị các bệnh về xương khớpCây an xoa có tác dụng chống viêm, giảm sưng khi bị viêm khớp, uống nước sắc từ cây làm đỡ đau nhức mỏi các khớp.
Giúp an thần, ngủ ngonUống cây an xoa tạo giấc ngủ ngon, an thần nhẹ với những trường hợp mất ngủ lâu ngày, giấc ngủ chập chờn.
Điều trị viêm đại tràngBên cạnh đó, cây an xoa còn chứa rất nhiều flavonoid, nó có tác dụng làm giảm sự phát triển của các tế bào viêm. Đồng thời hỗ trợ và bảo vệ thành đại tràng tránh khỏi sự xâm hại của các tế bào gây viêm.
Theo Đông Y và một số nghiên cứu khoa học khác, uống cây an xoa giúp hỗ trợ điều trị các bệnh về gan như xơ gan, viêm gan, men gan cao, giúp mát gan, tăng cường chức năng gan, giải độc gan.
Có thể nói cây an xoa như một dược liệu cứu tinh đối với những người mắc bệnh gan mạn tính và cấp tính. Cụ thể:
Cây an xoa có tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư ganNăm 2023, một bài nghiên cứu trong tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ đã chỉ ra rằng các thành phần cây an xoa có tác dụng kháng tế bào ung thư gan HepG2 (Ung thư gan nguyên phát).
Các nghiên cứu cho thấy, dược liệu có tác dụng ngăn chặn sự phát triển, di căn của tế bào ung thư, bài tiết chất độc trong gan, tiêu diệt các tế bào ung thư.
Hỗ trợ điều trị viêm gan BNhờ những dược tính tốt cho gan, nên cây an xoa cũng được dùng để điều trị bệnh nhân mắc viêm gan B.
Cây an xoa có tác dụng ức chế sự phát triển của virus, chống oxy hóa, bảo vệ gan tốt hơn, giảm thiểu tác hại của viêm gan B gây ra.
Đặc biệt cây an xoa và cây cà gai leo rất tốt trong việc hỗ trợ chữa trị về gan đặc biệt là viêm gan B.
Có tác dụng điều trị bệnh xơ ganNgười bệnh xơ gan sẽ có các triệu chứng như mệt mỏi, chảy máu cam, lười ăn,…
Cây an xoa có tác dụng tái tạo tế bào gan, phục hồi chức năng, giúp gan khỏe hơn, giúp hỗ trợ điều trị bệnh nhân xơ gan. Ngoài ra, loài cây này còn giúp chữa bệnh mất ngủ, vàng da rất tốt.
Giải độc, làm mát ganĐối với những người uống nhiều rượu bia, ăn nhiều dầu mỡ làm gan nóng, chức năng thải độc kém.
Cây an xoa sẽ có tác dụng giúp giải độc, làm mát gan, giúp giảm thiểu các triệu chứng như mệt mỏi, mụn nhọt, vàng da,…
Lưu ý không sử dụng cây an xoa cho phụ nữ có thai, cho con bú và trẻ em dưới 3 tuổi.
Không dùng chung cây an xoa với thuốc tây vì sẽ làm giảm hiệu quả của thuốc.
Nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.
Trước khi dùng cây an xoa cần sao vàng, hạ thổ, để phát huy hết công năng của thuốc.
Nên lựa chọn nơi bán cây an xoa uy tín để đảm bảo chất lượng.
Nguồn: Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec
Top 7 Bài Văn Cảm Nhận Tác Phẩm Cây Tre Việt Nam (Thép Mới)
Bài tham khảo số 7
Khi đọc tác phẩm “Cây tre Việt Nam”, Thép Mới đã cho người đọc thấy được sự gắn bó của cây tre trong cuộc sống của con người Việt Nam.
Nhà văn đã khẳng định tre chính là người bạn thân của nông dân, nhân dân Việt Nam. Sau đó, hình ảnh cây tre được miêu tả: “Vào đâu tre cũng sống, cũng xanh tốt”, “Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn”. Cây tre mang vẻ đẹp thanh cao, giản dị, chí khí như con người.
Tiếp đến, Thép Mới đã giúp người đọc hiểu hơn về sự gắn bó của cây tre với cuộc sống của người dân Việt Nam. Từ lâu, bóng tre xanh đã bao trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn. Dưới bóng tre đã giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre là cánh tay của người nông dân. Cây tre vất vả mãi với người cối xay tre nặng nề quay. Tre là người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày. Tre buộc chặt những tình cảm chân quê. Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già. Cây tre gắn bó với cuộc sống của con người Việt Nam như một người bạn tri kỷ.
Không chỉ trong đời sống vật chất hay tinh thần, tre còn trở thành đồng chí của với con người trong chiến tranh. Nhân dân ta đã dùng tre làm vũ khí đánh giặc. Trong quá khứ, chúng ta không thể quên được hình ảnh Thánh Gióng đã nhổ bụi tre để đánh đuổi giặc Ân. Ở hiện tại, tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre đã giúp nhân dân ta giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh. Thậm chí tre còn “hy sinh để bảo vệ con người”.
Đoạn văn cuối cùng, tác giả đã đem đến sự lắng đọng khi nói về cây tre ở hiện tại. Dù cuộc sống có hiện đại hơn, thì tre vẫn còn nguyên vị trí trong tương lai khi đất nước đi vào công nghiệp hóa: tre vẫn là bóng mát, tre mang khúc nhạc tâm tình.
Cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh và con người Việt Nam. Tác phẩm “Cây tre Việt Nam” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Bài tham khảo số 5Bài tham khảo số 7
Khi đến với tác phẩm “Cây tre Việt Nam”, Thép Mới đã cho người đọc thấy được sự gắn bó của cây tre trong cuộc sống của con người Việt Nam. Cây tre là người bạn thân thiết lâu đời của nông dân và nhân dân Việt Nam. Nó đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Thép Mới đã cho người đọc thấy được rằng cây tre có mặt ở mọi nơi trên đất nước ta và có những phẩm chất đáng quý. Tre là người bạn thân của nông dân, nhân dân Việt Nam. Nhà văn đã khắc họa những đặc điểm của cây tre: “Vào đâu tre cũng sống, cũng xanh tốt”, “Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn”. Khi lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Qua đó thấy được, cây tre mang vẻ đẹp thanh cao, giản dị, chí khí như con người.
Tre cũng xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc lao động. Những hình ảnh so sánh, nhân hóa đã giúp chúng ta hình dung rõ hơn về sự gắn bó của cây tre với con người. Tre trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn. Dưới bóng tre, giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre là cánh tay của người nông dân. Cây tre vất vả mãi với người cối xay tre nặng nề quay. Tre là người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày. Tre buộc chặt những tình cảm chân quê. Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già. Không chỉ trong cuộc sống lao, trong lao động mà ngay cả trong chiến đấu, tre cũng đóng một vai trò quan trọng. Nhân dân ta đã dùng tre làm vũ khí đánh giặc. Trong quá khứ, chúng ta không thể quên được hình ảnh Thánh Gióng đã nhổ bụi tre để đánh đuổi giặc Ân. Ở hiện tại, tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre đã giúp nhân dân ta giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh. Thậm chí tre còn “hy sinh để bảo vệ con người”. Sự gắn bó đó đã trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết khi phải trải qua hi sinh, mất mát. Cuối cùng, nhà văn khẳng định rằng tre chính là người bạn của dân tộc ta. Một lời khẳng định đúng đắn, sâu sắc.
Cuối cùng, Thép Mới còn khẳng định vị trí của cây tre khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa: “khi mà sắt, thép và xi măng cốt sắt sẽ dần dần trở nên quen thuộc, sẽ thay thế một phần cho tre nứa”. “Nhưng tre nữa sẽ vẫn còn mãi. Nứa tre vẫn làm bóng mát, làm cổng chào, và hóa thân vào âm nhạc, vào nét văn hóa trong chiếc đu ngày xuân dướn lên bay bổng”. Đó là niềm tin của nhà văn vào sự tồn tại bất diệt của cây tre đối với con người.
Đọc bài viết này, chúng ta dường như không chỉ thấu hiểu được sự gắn bó mật thiết của cây tre và con người. Mà còn cảm thấy thêm yêu mến loài cây biểu tượng cho đất nước, cho con người Việt Nam này. Thép Mới đã thật thành công khi sử dụng các biện pháp tu từ trong việc diễn ra sự gắn bó, phẩm chất tốt đẹp và vai trò to lớn của cây tre.
Tác phẩm “Cây tre Việt Nam” đã khắc họa được hình ảnh cây tre với sự gắn bó mật thiết trong cuộc sống của con người Việt Nam. Nhờ có bài viết này mà chúng ta hiểu rõ hơn về sự gắn bó giữa tre và con người.
Bài tham khảo số 5
Bài tham khảo số 6Bài tham khảo số 5
Trong tác phẩm “Cây tre Việt Nam”, nhà văn Thép Mới đã giúp người đọc hiểu hơn về hình ảnh cây tre vốn đã quen thuộc trong cuộc sống của người dân Việt Nam.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của cây tre: “Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Điều đó cho thấy tre là một loài cây gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống của con người Việt Nam. Tiếp đến, nhà văn miêu tả vẻ đẹp của tre: “Dù ở đâu, tre vẫn vươn thẳng mình phía trước, sống xanh tốt. Dẫu cho đó là chốn đất cằn đá sỏi hay nơi màu mỡ tốt tươi”. Bởi vậy mà đi khắp mọi miền tổ quốc, chúng ta đều có thể bắt gặp hình ảnh cây tre: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi… đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn”. Lời giới thiệu mở đầu đầy nhẹ nhàng đã cho thấy tình cảm thắm thiết, chân thành của tác giả dành cho cây tre.
Hình ảnh cây tre là biểu tượng cho những phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam: “Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng. Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt…”. Chỉ với vài câu văn ngắn mà tác giả đã khẳng định được vẻ đẹp cả về sức vóc và phẩm chất của tre đầy đúng đắn, thể hiện được sự tinh tế trong cách quan sát và cảm nhận của tác giả. Cây tre trở thành một đại diện cho vẻ đẹp, những phẩm chất đầy cao quý của dân tộc Việt Nam.
Tre cũng giống như một người bạn tâm tình của con người: “Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh tay của người nông dân”. Tre gắn bó với con người trong cuộc đời như một điều gì khó có thể chia cắt được. Từ tuổi ấu thơ, tre là nguồn vui trong mỗi trò chơi dân gian chơi chuyền, đánh thẻ. Lúc trưởng thành, tre bên cạnh con người vào ruộng, ra nương. Khi về già, tre lại là bạn tâm giao trong chiếc điếu cày khoan khoái. Tre chung thủy với người như dân làng thủy chung, gắn bó với quê hương mình vậy. Bởi vậy mà chúng ta thêm yêu mến cây tre có lẽ cũng vì điều đó.
Đọc những câu văn tiếp theo, người đọc càng trân trọng thêm loài cây này: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”. Tre – người hùng chiến trận, cùng với con người chống lại kẻ thù.
Cuối cùng, nhà văn nói đến cây tre ở hiện tại. Khi mà những xi măng, cốt sắt ngày càng nhiều thì tre vẫn giữ một vị trí đặc biệt: “Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi”. Điều đó khiến chúng ta thêm tin vào những giá trị trường tồn với thời gian.
Tác phẩm “Cây tre Việt Nam” là một tác phẩm hay viết về cây tre Việt Nam. Khi đọc tác phẩm, chúng ta thêm yêu mến, tự hào và trân trọng loài cây này.
Bài tham khảo số 3Bài tham khảo số 6
Ngày xửa ngày xưa, tôi chỉ là một mầm măng nhỏ được sinh ra tại một làng quê nghèo chất phác và mộc mạc. Từ lâu tôi đã thắc mắc không biết tổ tiên mình là ai và có từ khi nào. Chỉ biết rằng:
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”.
Thật đúng như vậy, họ hàng nhà tre chúng tôi đã có từ lâu đời, gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Thuở ấu thơ, tôi chỉ là một mầm măng yếu ớt với cái thân hình bé nhỏ hình nón, trên đầu nhọn hoắc và khoác ngoài nhiều lớp áo xếp chồng lên nhau bao lấy tấm thân nhỏ bé. Rồi tôi trưởng thành theo thời gian và trở thành một chàng tre đích thực. Thân tôi gầy guộc hình ống rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Tôi bền bỉ hiên ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ, bảo vệ cuộc sống của mình trước những bàn tay ác quỷ dám chặt phá tôi một cách vô lí. Lá của tôi mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.
Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng. Cả nhà chúng tôi đung đưa tạo gió, giang những cành tre che mát cho đàn con-những đàn con thân yêu. Đến thời kì mưa gió bão bùng, chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa. Chính nhờ đặc điểm này mà chúng tôi sống được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi gần nước hay những nơi xa nước. Vì thế mà câu thơ này ra đời:
“Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu”…
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, vai trò của tôi được nêu cao trong việc làm vũ khí đánh giặc như gậy, chông, mũi tên. cung tên,… góp phần mang lại hòa bình cho dân tộc Việt Nam hôm nay. Trong cuộc sống của con người ngày hôm nay, tôi được xây dựng thành những ngôi nhà tre vững chãi che nắng che mưa, nuôi sống con người và đàn con thơ của họ. Trong bữa cơm hằng ngày của con người, tôi dược dùng để gắp thức ăn và con người gọi tên tôi là đũa, dùng tôi để gắp thức ăn không trơn trượt như đũa nhựa mà rất nhẹ và dùng gắp thức ăn rất dễ, lại rẻ tiền nữa!
Sau mỗi bữa ăn, những người lớn dùng tăm để xỉa răng được làm từ tôi. Mỗi sáng các chị em phụ nữ trên tay xách chiếc giỏ mây đi chợ, hay các ông các bà nhâm nhi tách trà nóng trên bộ bàn ghế được đan bằng mây. Vì vậy, ở quê hương tôi có nhiều người làm tăm tre, đũa tre, đan giường hay đan giỏ mây, bàn ghế mây. Các chị tre ngà có ngoại hình khá đẹp và ấn tượng thì được trồng làm cảnh. Ngoài ra, khi cuộc đời tôi đã chấm hết, thân hình chỉ còn là một cây tre gầy còm, xơ xác và khô héo lụi tàn, tôi vẫn được mọi người sử dụng để làm chất đốt vì dễ cháy và ngọn lửa mạnh.
Các bạn đã nghe câu: “Tre già măng mọc” chưa? Đó là chu kì sống của họ nhà tôi đấy! Dòng họ nhà tre chúng tôi sẽ duy trì nòi giống cho đến tận mai sau để gắn bó với con người nhiều hơn, để dần đi vào tiềm thức của loài người, để được người đời nhớ mãi. Nhớ rằng tre như một người nông dân chất phác và mộc mạc, chịu thương chịu khó. Tre còn như một biểu tượng thiêng liêng cho một sức mạnh hùng hồn, sự bền bỉ và chịu đựng ngoan cường, tinh thần bất khuất trước kẻ thù của đất nước ta, dân tộc ta trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Thân hình yếu ốm của loài tre chúng tôi như nước Nam ta thời xưa chưa hùng mạnh nhưng lại tiềm ẩn một sức mạnh phi thường, đánh đổ được tất cả những bão tố, khó khăn để đi đến một thắng lợi vẻ vang và chính nghĩa.
Bài tham khảo số 2Bài tham khảo số 3
Bức tranh thanh bình của làng quê Việt Nam là cảnh sắc làng quê nông thôn với những biểu tượng đặc trưng mang đậm sắc thái dân tộc: mái đình cây đa, cánh cò, sáo diều, con trâu, lũy tre… Dù đi đâu về đâu thì hình ảnh ấy vẫn sống mãi trong lòng mỗi người Việt Nam.
“Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi”…
Cái hình ảnh “lắc lẻo” ấy cứ rung động nhẹ nhàng liên tiếp trong lòng tôi mãi mãi như lời ru của mẹ, nằm trên chiếc võng tre màu trà lên nước in bóng mẹ đã theo tôi đi hết cuộc đời. Cây tre là người bạn thân thiết lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam, với nhiều phẩm chất cao quý, nó đã trở thành biểu tượng về con người, về đất nước Việt Nam.
“Tre xanh xanh tự bao giờ. Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh” không biết tre có từ đâu, nhưng từ thời Hùng Vương thứ Sáu đã đi vào truyền thuyết lịch sử chống giặc cứu nước. Tre tượng trưng cho người quân tử bởi thân hình gầy guộc thẳng đứng, cao vút, bất khuất vươn lên bầu trời cao. Lá thì mong manh, manh áo cộc bao ngoài thì để dành cho măng, như người mẹ hiền âu yếm, hi sinh cho đứa con yêu bé bỏng.
Dù gầy guộc nhưng tre vẫn biết sống chung biết kết nên lũy nên thành, sự đoàn kết đó không sức mạnh gì tàn phá nổi. Những cây con thì nhọn hoắt, đâm thẳng, tự tin, vươn lên đầy sức sống, như sự tiếp sức cho thế hệ đi trước. Tre kiên gan bền bỉ vững chãi trong mọi môi trường sống dù bùn lầy, khô hạn, đất sỏi đất vôi bạc màu tre cũng xanh tươi mượt mà. Tre mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp dẻo dai, thanh cao chí khí như người. Sự hóa thân ấy đã xóa bỏ ranh giới giữa con người với sự vật. Tre là người bạn thân của con người, từ khi lọt lòng nằm trong chiếc nôi tre, lớn lên gắn bó với tre qua các trò chơi: tán hưng, ống thụt, làm diều, làm lồng đèn trung thu…
Trưởng thành lao động dưới bóng tre những đêm trăng: “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng. Tre non đủ lá đan sàng được chăng?”. Đến khi lấy vợ gả chồng thì cùng dựng mái nhà tranh có kèo cột tre, giường tre….Tre hiện diện trong đời sống con người từ ăn, ở, làm việc, trong phong tục, tập quán, dựng nhà dựng cửa… từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi, tre với con người sống chết có nhau chung thủy. “Dưới bóng tre, thấp thoáng mái đình chùa cổ kính” là một nền văn hóa nông nghiệp, những nhọc nhằn, giần sàng, xay, giã đều có tre. Tre chẻ lạt gói bánh chưng khi xuân về, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu nỉ non dưới bóng tre xanh. Tre trong niềm vui trẻ thơ, trong chút khoan khoái của tuổi già, khắng khít ràng buộc như định sẵn như tơ duyên.
Tre đi vào đời sống tâm linh như một nét văn hóa. Từ những câu hát, câu thơ như xâu chuỗi tâm hồn dân tộc “bóng tre trùm mát rượi”, một lời tâm sự về mùa màng “Cánh đồng ta năm đôi ba vụ. Tre với người vất vả quanh năm”, hay một khúc hát giao duyên “Lạt này gói bánh chưng xanh. Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng”. Nhạc của trúc của tre là khúc nhạc đồng quê. Những buổi trưa hè lộng gió, tiếng võng tre kẽo kẹt bay bổng, xao xuyến bâng khuâng man mác như lời của đồng quê của cuộc sống thanh bình.
Tre trong sự nghiệp dựng nước cũng bất khuất, can trường với khí tiết ngay thẳng: “Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người”. Tre lăn xả vào kẻ thù vào cái ác, dù cái ác rất mạnh, để giữ gìn non sông đất nước, con người. Tre là đồng chí của ta, tre vì ta mà đánh giặc. Kì lạ thay cái cối xay tre là biểu tượng về cuộc đời lam lũ, về sự chịu đựng bền bỉ dẻo dai, vẫn là cây tre nhũn nhặn ấy, nó nhọn hoắt mũi tầm vông với sức mạnh của Thánh Gióng năm xưa đánh đuổi giặc Ân cứu nước.
Mai này, khoa học kĩ thuật có phát triển đến đâu, cũng không thể thay thế hình ảnh cây tre trong tâm hồn của con người Việt Nam. Nó trở thành cây tre tinh thần là bóng mát, là khúc nhạc tâm tình, còn là biểu tượng cao quý cho phẩm chất cốt cách con người Việt Nam.
Bài tham khảo số 2
Bài tham khảo số 1Bài tham khảo số 2
“Cây tre Việt Nam” của nhà văn Thép Mới là lời bình cho bộ phim cùng tên của các nhà điện ảnh Ba Lan.
Khi đọc câu văn đầu tiên, chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng ấn tượng: “Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam”. Thép Mới đã khái quát cho người đọc hiểu rõ về mối quan hệ giữa cây tre và người dân Việt Nam.
Tiếp đến, tác giả nói đến cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần, trong sản xuất, trong tâm hồn, trong chiến đấu của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam qua trường kỳ lịch sử. Đất nước Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, chan hoà ánh nắng. Cây cỏ tốt tươi xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Tác giả so sánh để ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người: “Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Tre có mặt khắp mọi miền đất nước: “Đồng Nai, Việt Bắc, Điện Biên Phủ, là luỹ tre thân mật làng tôi”. Tre được nhân hoá, trở nên gần gũi yêu thương: “đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn”. Cây tre dường như đã trở thành một người bạn quá đỗi thân quen với con người.
Không chỉ vậy, họ hàng nhà tre còn có: tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau. Nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là cùng một mầm non măng mọc thẳng. Đây là một phát hiện vô cùng tinh tế, ý vị. Tre có một sức sống vô cùng mạnh mẽ vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng có những vần thơ hay viết về cây tre:
“Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu”
(Tre Việt Nam)
Hình ảnh nhân hoá trở đã giúp người đọc hiểu được phẩm chất của cây tre: “Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”. Tre cũng mang trong mình khí chất của con người Việt Nam.
Tiếp đến, sự gắn bó của tre với con người đã được Thép Mới khắc họa rõ nét. Nhà văn đã trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: “Bóng tre trùm mát rượi” để từ đó nói lên vẻ đẹp của luỹ tre làng quê, một vẻ đẹp êm đềm của xứ sở. Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Tre là vẻ đẹp của cảnh sắc làng quê, là vẻ đẹp của nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Các từ ngữ, hình ảnh: bóng tre, dưới bóng tre của ngàn xưa, dưới bóng tre xanh… được điệp lại, lấy lại đã tạo nên giọng văn nhẹ nhàng mênh mang biểu cảm: “Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình, mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu dời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp”. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hoá, màu chung thuỷ.
Tre còn được nhân hoá: “Tre ăn ở với người, tre … giúp người…, tre vẫn phải còn vất vả mãi với người, tre là người nhà…”. Từ một vật thể, cây tre trở nên có tâm hồn, có linh hồn gắn bó với cuộc đời vất vả, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta trong dòng chảy thời gian. Tre gắn bó với tâm tình của nhân dân. Lạt giang mềm để gói bánh chưng; sự hiện hữu của nó trong sính lễ như “khít chặt” những mối tình quê thắm thiết; thuỷ chung.
“Tre là cánh tay của người nông dân”. Điệp ngữ “bóng tre”, “dưới bóng tre”, “tre” được lặp đi lặp lại càng làm rõ sự khăng khít, gắn bó bên nhau giữa trẻ và người. Tre gắn bó với con người trong cuộc đời như một điều gì khó có thể chia cắt được. Từ tuổi ấu thơ, tre là nguồn vui trong mỗi trò chơi dân gian chơi chuyền, đánh thẻ. Lúc trưởng thành, tre bên cạnh con người vào ruộng, ra nương, khi về già, tre lại là bạn tâm giao trong chiếc điếu cày khoan khoái. Tre chung thủy với người như dân làng thủy chung, gắn bó với quê hương mình vậy.
Không chỉ vậy, tre còn gắn bó trong chiến đấu. Tre cũng mang trong mình những phẩm chất của một người hùng bất khuất, kiên cường: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất”. Tre vào chiến trận cũng gan dạ, kiên cường oanh liệt, lấy thân mình giữ làng nước quê hương: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”. Tre – người hùng chiến trận, lời tác giả viết đều chân thực, dựa trên lịch sử và thực tế vì vậy mỗi từ, mỗi chữ đều lay động tâm hồn người đọc.
Cuối cùng, tác giả đã gợi cho chúng ta những suy tư về vai trò của cây tre trong cuộc sống Hiện đại. Khi mà những xi măng, cốt sắt ngày càng nhiều thì tre vẫn giữ một vị trí đặc biệt trong cuộc sống của con người: “Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi”. Những hình ảnh mang tính biểu tượng, gợi cho chúng ta nhiều suy tư sâu sắc.
Tóm lại, Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới là một tác phẩm giàu ý nghĩa. Qua đây, người đọc đã có được những cảm nhận sâu sắc về vai trò của tre đối với dân tộc Việt Nam.
Bài tham khảo số 4Bài tham khảo số 1
Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Tre cũng có những phẩm chất đáng quý như con người vậy. Làng quê Việt Nam luôn gắn với hình ảnh lũy tre đầu làng.
Tre có từ bao giờ cũng không ai biết nữa, nhưng từ thời Hùng Vương thứ Sáu đã đi vào truyền thuyết lịch sử chống giặc cứu nước. Tre tượng trưng cho người quân tử bởi thân hình gầy guộc thẳng đứng, cao vút, bất khuất vươn lên bầu trời cao. Lá thì mong manh, manh áo cộc bao ngoài thì để dành cho măng, như người mẹ hiền âu yếm, hi sinh cho đứa con yêu bé bỏng. Dù gầy guộc nhưng tre vẫn biết sống chung biết kết nên lũy nên thành, sự đoàn kết đó không sức mạnh gì tàn phá nổi. Những cây con thì nhọn hoắt, đâm thẳng, tự tin, vươn lên đầy sức sống, như sự tiếp sức cho thế hệ đi trước. Tre kiên gan bền bỉ vững chãi trong mọi môi trường sống dù bùn lầy, khô hạn, đất sỏi đất vôi bạc màu tre cũng xanh tươi mượt mà. Tre mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp dẻo dai, thanh cao chí khí như người. Sự hóa thân ấy đã xóa bỏ ranh giới giữa con người với sự vật.
Từ lâu cây tre đã trở thành người bạn thân của con người. Khi lọt lòng ta được nằm trong chiếc nôi tre, lớn lên gắn bó với tre qua các trò chơi: tán hưng, ống thụt, làm diều, làm lồng đèn trung thu… Trưởng thành lao động dưới bóng tre những đêm trăng: ” Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng . Tre non đủ lá đan sàng được chăng?”. Đến khi lấy vợ gả chồng thì cùng dựng mái nhà tranh có kèo cột tre, giường tre….Tre hiện diện trong đời sống con người từ ăn, ở, làm việc, trong phong tục, tập quán, dựng nhà dựng cửa… từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi, tre với con người sống chết có nhau chung thủy. “Dưới bóng tre, thấp thoáng mái đình chùa cổ kính” là một nền văn hóa nông nghiệp, những nhọc nhằn, giần sàng, xay, giã đều có tre.
Tre chẻ lạt gói bánh chưng khi xuân về, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu nỉ non dưới bóng tre xanh. Tre trong niềm vui trẻ thơ, trong chút khoan khoái của tuổi già, khắng khít ràng buộc như định sẵn như tơ duyên. Tre cũng tạo nên cảm hứng sáng tác trong nhiều tác phẩm thơ văn. Từ những câu hát, câu thơ như xâu chuỗi tâm hồn dân tộc “bóng tre trùm mát rượi”, một lời tâm sự về mùa màng “Cánh đồng ta năm đôi ba vụ. Tre với người vất vả quanh năm”, hay một khúc hát giao duyên “Lạt này gói bánh chưng xanh. Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng”. Nhạc của trúc của tre là khúc nhạc đồng quê. Những buổi trưa hè lộng gió, tiếng võng tre kẽo kẹt bay bổng, xao xuyến bâng khuâng man mác như lời của đồng quê của cuộc sống thanh bình.
Trong cuộc chiến giữ nước, tre cũng bất khuất, can trường với khí tiết ngay thẳng: “Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng giữ nước , giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người”. Tre lăn xả vào kẻ thù vào cái ác, dù cái ác rất mạnh, để giữ gìn non sông đất nước, giữ tính mạng cho con người. Tre là đồng chí của ta, tre vì ta mà đánh giặc. Kì lạ thay cái cối xay tre là biểu tượng về cuộc đời lam lũ, về sự chịu đựng bền bỉ dẻo dai, vẫn là cây tre nhũn nhặn ấy, nó nhọn hoắt mũi tầm vông với sức mạnh của Thánh Gióng năm xưa đánh đuổi giặc Ân cứu nước.
Ngày nay cuộc sống đã thay đổi, các vật dụng làm từ tre cũng không nhiều nữa, đầu làng ít thấy thấp thoáng lũy tre xanh, con người cũng ít phải ngồi hóng mát dưới gốc tre nữa. Tuy vậy cây tre mãi mãi vẫn tồn tại trong tâm trí người dân Việt và là biểu tượng không bao giờ thay đổi của dân tộc ta.
Bài tham khảo số 4
Bài tham khảo số 4
Đăng bởi: Duyên Thương Trương Nguyễn
Từ khoá: Top 7 Bài văn cảm nhận tác phẩm Cây tre Việt Nam (Thép Mới) – Ngữ văn 6 sách KNTT hay nhất
Vừng: Vị Thuốc Chữa Bệnh Quý Cho Người Nghèo
Vừng có tên khoa học Sesamum orientale L., thuộc họ Vừng (Pedaliaceae).
Còn gọi là Mè, Du tử miêu, Cự thắng tử, Chi ma, Bắc chi ma, Hồ ma.
Đây là loại cỏ nhỏ, thân nhiều lông, cao chừng 0,6m, sống hằng năm. Lá mọc đối, đơn, không có lá kèm, nguyên, có cuống.
Hoa trắng mọc đơn độc ở kẽ lá, lưỡng tính, không đều, có cuống ngắn. Đài hơi hợp ở gốc. Tràng hình ống loe ra thành hai môi. Môi dưới gồm 3 thùy, môi trên 2 thùy, 4 nhị, 2 to, 2 nhỏ, 2 lá noãn. Đầu nhụy có 2 núm, bầu có vách giả chia thành 4 ô, mỗi ô chứa một dãy dọc nhiều noãn.
Quả nang dài, 4 ô mở thành 4 mảnh. Nhiều hạt nhỏ màu vàng hay nâu đen. Lá mầm chứa nhiều dầu.
Vừng được trồng khắp nơi trong nước để lấy hạt và xuất cảng. Vào các tháng 7, 8, 9, người ta cắt toàn cây về phơi khô đập lấy hạt, loại bỏ tạp chất.
Vừng đen hay vàng đều dùng làm thuốc được, nhưng thường chỉ hay dùng Vừng đen làm thuốc. Còn dầu thì ép từ Vừng đen hay vàng đều dùng được.
Hạt chứa 40 – 55% dầu, 5 – 6% nước, 20 – 22% chất protein, 5% trong đó có: 1,7mg đồng, 1% canxi oxalate, 6,3 – 8,8% chất không có nito, pentozan, lexitin, phytin, cholin.
Dầu Vừng chứa khoảng 12 – 16% acid đặc (7,7% acid panmitic; 4,6% acid stearic; 0,4% acid arachidic), 75 – 80% acid lỏng (trong đó có 48% acid oleic; 30% acid linoleic và 0,04% acid lignoxeric).
Trong dầu Vừng, Villelavecchia và Fabris còn phân tích được chất sesamin C20H18O6 với tỉ lệ chừng 0,25 – 1%. Ngoài ra còn khoảng 0,1% chất sesamol, một phenol có công thức C7H6O3.
Vừng vị ngọt, tính bình, không độc, quy kinh phế, tỳ, can, thận, có tác dụng ích can, bổ thận, bổ huyết, nhuận táo. Đây là thuốc tư dưỡng cường tráng, chủ trị thương phòng, hư nhược, bổ ngũ tạng, ích khí lực, đầy tuỷ não, bền gân cốt. Thuốc thường dùng cho người già hoặc trẻ em hay bệnh lâu ngày. Ngoài ra, người ta thường dùng nấu với muối chì và các vị thuốc khác làm thuốc cao dán nhọt. Vừng là vị thuốc bổ âm mạnh.
Lá có vị ngọt, tính lạnh, tác dụng ích khí, bổ não tuỷ, mạnh gân cốt, khỏi tê thấp.
Hoa Vừng ngâm vào nước đắp lên mắt làm mát mắt, dịu đau.
Nước sắc lá và rễ Vừng dùng làm thuốc mọc tóc và giữ cho tóc được đen lâu.
Dầu Mè còn gọi là Ma du, có tính lương huyết, trị ghẻ. Dùng nấu cao chữa ghẻ lở ngoài da làm mau lành vết thương.
Liều: ngày uống 10 – 25ml làm thuốc bổ, muốn nhuận và tẩy, tăng liều lên tới 40 – 60g.
Vừng đen: ngày có thể dùng 12 – 25g dưới dạng thuốc viên, thuốc bột hay thuốc cao.
Chống chỉ định: tiêu lỏng không dùng.
5.1. Tăng huyết ápVừng đen, Hà thủ ô, Ngưu tất, các vị bằng nhau tán nhỏ, dùng mật vo thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 10g.
5.2. Lợi sữaVừng đen sao qua, giã nhỏ cho thêm ít muối ăn hằng ngày.
5.3. Ghẻ chốc ngứa daHạt Mè 10g; Đương quy 6g; Thổ bối mẫu 4,5g; Liên kiều 4,5g. Rễ Thược dược thứ đỏ, củ Kim cương, Hà thủ ô, hoa Dây mối đều 10g. Mộc thông, Cam thảo 3g. Sắc uống.
5.4. Đại trường táo tiện không thôngHạt Mè, Bạch truật mỗi thứ 10g, tán bột uống.
5.5. Trẻ con đi cầu nhầy máu lỵDùng dầu Vừng 5g hay 10g tuỳ theo tuổi hoà với mật ong cho uống.
5.6. Người già gầy, suy nhượcMè đen (10 – 100g), Đậu đen (10-20g), lá Dâu (10 – 20g), Cốc nha (10 – 50g), sắc uống. Cân nhắc làm hoàn mật uống lâu dài.
5.7. Bỏng nước sôi nhẹMè đen giã nát đắp lên chỗ bỏng hoặc thoa một lớp mỏng dầu Mè lên vết bỏng.
5.8. Cháo vừngVừng đen 6g sao thơm để riêng, gạo tẻ 30g, cho vào nồi thêm nước nấu thành cháo. Khi cháo chín cho Vừng vào khuấy đều, thêm chút đường cho vừa khẩu vị. Dùng làm món ăn điểm tâm buổi sáng. Có tác dụng bổ ngũ tạng, mạnh gân cốt, nhuận tràng và bổ sung vitamin E cho cơ thể.
Ngó Sen: Vị Thuốc Quý Của Làng Quê Việt Nam
Ngó sen còn được gọi là ngẫu tiết có tên khoa học là Nodus Nelumbinis Rhizomatis.
Là phần thân rễ của cây sen nằm ngập trong bùn, có dạng hình trụ đường kính khoảng 3cm, lớp vỏ ngoài dai màu nâu nhạt, phía trong mềm xốp màu trắng hồng, mặt cắt có nhiều khoang rỗng xếp theo hình nan hoa. Ngó sen khi lớn sẽ phát triển thành những lá có cuống dài.
Cây sen tên khoa học là Nelumbo nucifera – Họ Sen (Nelumbonaceae);
Cây sen là một loài cây thân thảo, sống dưới nước. Rễ cây sen (ngó sen) sống ở dưới mặt nước, vùi sâu xuống bùn. Thân cây hình trụ, màu xanh lục. Lá sen mọc ra từ thân cây, lá tỏa tròn, cuống dài, màu xanh lục, lá sen mọc trên mặt nước, mặt trên của lá sen không thấm nước.
Hoa sen to, có màu trắng hoặc màu hồng, có nhiều nhị màu vàng. Các lá noãn rời gắn lên ở mỗi đế hoa, sau này noãn phát triển thành quả. Mỗi quả có chứa một hạt, mỗi hạt có một chồi nhỏ ở giữa, là tâm sen.
Cây sen mọc khắp nơi ở Việt Nam, thường trong các đầm, hồ, ao. Cây thường ra hoa quanh năm.
Thành phần hóa họcNgó sen có thành phần hóa học chứa 70% tinh bột, 8% asparagin, araginin, trigonellin, vitamin C, vitamin A, vitamin B, chất xơ và tanin.
Theo Y học hiện đại Cung cấp nhiều chất dinh dưỡngTrong dược liệu này có chứa nhiều asparagin, là một loại amino acid không tự sản xuất được trong cơ thể. Hoạt chất này có vai trò quan trọng trong chu trình tổng hợp glycoprotein và protein.
Hỗ trợ hoạt động của hệ thần kinh Bảo vệ ganArginin (hay arginine) có trong dược liệu này là một axit amin cần thiết, tham gia vào quá trình tổng hợp protein và chu trình tạo ra ure ở gan giúp giải độc amoniac ở người bệnh gan.
Sử dụng thường xuyên ngó sen giúp tăng cường chức năng gan, tăng khả năng thải độc của gan. Từ đó, giảm các triệu chứng do các bệnh về gan như: vàng da, vàng mắt, táo bón, suy giảm chức năng gan, cơ thể mệt mỏi, suy nhược…
Chữa táo bónNgó sen chứa nhiều chất xơ, ăn nhiều thực phẩm này giúp tăng thể tích chất trong lòng ruột, tăng co bóp và làm sạch đường ruột, giúp điều trị táo bón, từ đó ngăn ngừa bệnh trĩ.
Bảo vệ dạ dàyTrong một nghiên cứu gần đây được tiến hành ở Trung Quốc, người ta ghi nhận rằng dịch chiết ngó sen có tác dụng thúc đẩy quá trình lành vết loét dạ dày trên chuột.
Tăng cường hệ miễn dịchLoại dược liệu này chứa nhiều Vitamin C. Đây là chất chống oxy hóa mạnh, giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và tái tạo của tế bào, giúp tế bào sửa chữa những tổn thương, tăng khả năng chống chịu với tác nhân có hại. Sử dụng dược liệu này thường xuyên giúp tăng cường hệ miễn dịch
Chống lão hóaKhông những thế vitamin C có trong là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản sinh collagen, tạo độ đần hồi, dẻo dai, liên kết giữa các mô, chống lão hóa.
Ổn định huyết ápChất asparagine trong ngó sen có vai trò như một chất lợi tiểu, giúp điều hòa lượng dịch thể trong lòng mạch, giúp ổn định huyết áp.
Bổ máuTrong y học cổ truyền, ngó sen thường được dùng như mọt vị thuốc cầm huyết, bổ huyết nên nó có tác dụng bổ máu.
Làm đẹp daNhờ tác dụng giải độc gan nên ngó sen sẽ giúp quá trình thanh lọc cơ thể diễn ra hiệu quả hơn, giúp da dẻ được hồng hào, sáng mịn.
Tác dụng theo Y học cổ truyềnNgó sen có vị ngọt, hơi chát, tính mát, bình, không có độc. Dùng để thu liễm, cầm máu, tráng dương, an thần.
Dân gian thường sử dụng ngó sen trong các bài thuốc cầm máu, bổ huyết, điều kinh.
Ép lấy nước uống, trị ngộ độc cua, cá.
Ép với mía tươi uống: trị cảm cúm, trúng nắng, sốt cao, khát nước, vật vã.
Ép lấy nước uống cùng vài lát gừng tươi: trị nôn dai dẳng.
Hầm canh: bổ dưỡng cơ thể, kích thích tiêu hóa.
Hầm canh với đậu xanh: trị đau mắt đỏ, ngứa mắt, chảy nước mắt do viêm kết mạc.
Hầm với đại táo: hỗ trợ tiêu hóa, dùng cho người ốm dậy, trị chảy máu chân răng, xuất huyết dưới da do giảm tiểu cầu.
Trị chảy máuNgó sen đã sao, tam lăng, nga truật, huyết dụ, bồ hoàng sao mỗi vị 8g; bách thảo sương 6g. Sắc ngày 1 thang và uống
Trị đái ra máu do viêm nhiễm đường tiết niệu cấpSinh địa 20g, hoạt thạch 16g; cam thảo sao 6g, đương quy 6g, tiểu kế, mộc thông, ngó sen, bồ hoàng sao, đạm trúc diệp, sơn chi mỗi vị 12g;. Sắc ngày 1 thang, uống
Trị sốt xuất huyếtLá sen, ngó sen, cỏ mực, rau má mỗi vị 30g; bông mã đề 20g. Sắc ngày 1 thang, uống; nếu có xuất huyết thì tăng lá sen và ngó sen lên 40 – 50g.
Trị rong huyếtQuy bản nướng 24g, mẫu lệ 20g, sinh địa 16g; hoàng cầm, ngó sen, a giao, sơn chi, địa du mỗi loại 12g; địa cốt bì 10g, cam thảo 4g. Sắc ngày 1 thang, uống
Trị hư lao, trong đờm lẫn máu, kiêm cả hư nhiệtDùng bài Tam tiên ẩm: tiên mao căn 120g, tiên tiểu kế 60g, tiên ngẫu tiết 120g. Sắc ngày 1 thang, uống
Tác dụng mát huyết, cầm máu.
Nên hạn chế dùng ngó sen dạng ống do dễ nhiễm ký sinh trùng. Ở những người hay đau dạ dày, hội chứng kích thích đường ruột thì hạn chế dùng. Vì ngó sen chứa nhiều chất xơ khi ăn nhiều dễ gây đầy bụng, khó tiêu.
7 Loại Phương Tiện Đi Lại Ở Việt Nam Thuận Tiện Nhất
Các loại phương tiện đi lại ở Việt Nam Di chuyển bằng máy bay
Đi máy bay rõ ràng là phương tiện đi lại ở Việt Nam đắt đỏ nhất nhưng nhanh nhất cho chuyến du lịch vòng quanh đất nước.
Với phương tiện di chuyển này, bạn có thể tới hầu hết mọi nơi trên đất nước trong khoảng 2 tiếng. Chính điều này đã giúp việc bay đến và đi vòng quanh Việt Nam trở nên dễ dàng cho những du khách có thời gian di chuyển gấp rút.
Tại Việt Nam, Vietnam Airlines là hãng hàng không nội địa lớn nhất (và đắt nhất). Tuy nhiên, bạn có thể lựa chọn rất nhiều hãng hàng không giá rẻ khác như VietJet Air, Jetstar, Bamboo Airways, VASCO…
Việt Nam cũng có hơn 20 sân bay với 08 sân bay quốc tế tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), Đà Nẵng, Nha Trang, Hải Phòng, Đảo Phú Quốc, Cần Thơ và Đà Lạt. Cho đến nay, phần lớn các chuyến bay quốc tế đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, với lượng khách hàng ngày đi qua các thành phố trung tâm của Châu Á như Hồng Kông, Seoul, Bangkok, Singapore, Quảng Châu, Siem Reap và Phnom Penh được khai thác chuyến bay thường xuyên nhất.
Nếu đặt vé sớm, bạn có thể tiết kiệm chi phí vì các hãng hàng không bình dân thường ưu đãi từ 30-50% cho vé đặt trước. Giá vé máy bay phụ thuộc vào thời gian đặt và ngày bay. Không có sự chênh lệch giữa giá vé người Việt Nam và người nước ngoài đặt.
Tuy nhiên, hãy nhớ rằng các chính sách và phí hành lý khác nhau tùy theo các hãng hàng không. Các hãng hàng không bình dân thường tính thêm phí hành lý hoặc chỗ ngồi ưu tiên.
Di chuyển bằng tàu hỏaViệt Nam là một trong số ít quốc gia ở Đông Nam Á có mạng lưới đường sắt hợp lý. Mặc dù chi phí vòng quanh Việt Nam bằng tàu hỏa cao hơn so với xe buýt, nhưng sự thoải mái mà nó mang lại rất đáng để thử.
Phương tiện đi lại ở Việt Nam phổ biến từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh là chuyến tàu Thống Nhất, di chuyển mất hơn 30 tiếng. Giá vé đường sắt là cố định, mặc dù có các mức giá khác nhau cho các hạng khác nhau.
Tàu Việt Nam có nhiều hạng ghế khác nhau, và vé tàu ở Việt Nam được chia thành 4 hạng riêng biệt với mức giá tăng dần. Mặc dù có nhiều lựa chọn, nhưng bạn nên chọn mức cao nhất trong khả năng chi trả của mình vì toa ghế hạng thấp khá cứng và tệ. Trên tàu có cả khoang ghế cứng và khoang ghế mềm để hành khách nghỉ đêm.
Nếu bạn là người yêu thích phương tiện đi lại này, hãy lưu ý các kỳ nghỉ lễ hoặc mùa cao điểm, và đặt vé chuyến tàu đêm càng sớm càng tốt. Ưu điểm của tàu đêm là bạn không phải mất thời gian di chuyển vào ban ngày, tiết kiệm chi phí ăn ở.
Có nhiều tuyến tàu ngắn hơn trong cả nước và du khách có thể sử dụng các tuyến này để từ Lào Cai đến Trung Quốc.
Di chuyển bằng xe buýtNếu chuyến du lịch kéo dài nhiều ngày và bạn không bận tâm về sự thoải mái thì phương tiện đi lại ở Việt Nam phù hợp nhất là xe buýt, đặc biệt với du khách độc hành. Bạn có thể di chuyển bằng xe buýt đến gần mọi thành phố Việt Nam, nhưng hãy lưu ý rằng một số con đường ọp ẹp không dành cho bạn. Ví dụ, một chuyến đi 276km từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Thành phố Hồ Chí Minh bằng xe buýt sẽ mất khoảng 8 tiếng.
Nếu bạn sử dụng phương tiện đi lại này vào ban ngày, hãy lưu ý xe thường dừng nhiều lần dọc tuyến để đón trả khách. Đừng mong đợi chúng sẽ di chuyển nhanh chóng hoặc hiệu quả. Hãy chắc chắn rằng bạn nói cho họ biết chính xác điểm đến của mình vì thường không có biển báo khi đến bến xe buýt.
Trong số các loại xe buýt, xe khách giường nằm là một trong những phương tiện đi lại ở Việt Nam phổ biến. Xe khách phù hợp với những chặng đường dài, có máy lạnh, hoạt động theo lịch trình với số lượng hành khách hạn chế.
Để sử dụng phương tiện đi lại này vòng quanh đất nước, bạn nên tìm hiểu các công ty xe buýt tư nhân trước khi mua mã. Ngoài ra, bạn nên quản lý đồ đạc cá nhân cẩn thận và tránh ngủ gật khi đang nghe nhạc (hoặc bất cứ thứ gì khác) vì rất có thể chúng không còn ở đó vào sáng hôm sau. Hãy giữ mọi thứ luôn bên mình khi đi xe khách.
Di chuyển bằng thuyềnCác chuyến du ngoạn bằng thuyền khởi hành từ Phnôm Pênh đến Châu Đốc chắc chắn là trải nghiệm thú vị, phù hợp cho khách kết hợp du lịch giữa Việt Nam và Campuchia. Tất nhiên, nếu yêu thích một cái gì đó sang trọng hơn, bạn có thể đi du thuyền xuôi dòng Mekong.
Phương tiện đi lại này cùng phù hợp với biển. Loại hình du thuyền trên vịnh Hạ Long được khuyến khích đối với tất cả du khách đến miền Bắc Việt Nam để có cơ hội nhìn thấy các đảo đá vôi kỳ vĩ. Ở phía Nam, các chuyến đi thuyền đến các đảo Phú Quốc và các đảo ngoài khơi Nha Trang cũng rất phù hợp.
Để có trải nghiệm du ngoạn bằng thuyền tốt nhất tại Việt Nam, bạn nên nghiên cứu kỹ lưỡng lựa chọn thuyền hoặc chọn một công ty du lịch chuyên nghiệp. Lưu ý rằng hầu hết các chuyến đi thuyền đều được tổ chức theo mùa và điều kiện thời tiết.
Di chuyển bằng ô tôViệc tự lái xe trong suốt hành trình thực sự thú vị và linh hoạt để tham quan mọi địa điểm, ngay cả những vùng xa xôi hẻo lánh. Bạn có thể dừng lại bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào bạn muốn. Bạn đang nghĩ đến việc đi du lịch vòng quanh Việt Nam bằng ô tô? Cần lưu ý rằng giấy phép lái xe quốc tế không có giá trị tại Việt Nam, do đó, thuê xe ô tô để đi lại trong Việt Nam không phải là lựa chọn cho khách du lịch nước ngoài.
Các công ty cho thuê xe không cung cấp phương tiện đi lại này cho người nước ngoài tự lái tại Việt Nam. Thay vào đó, bạn có thể thuê xe có người lái thông qua hầu hết các công ty du lịch hoặc khách sạn. Tuy nhiên, hãy đảm bảo rằng người lái xe biết tiếng Anh đủ để giao tiếp với bạn. Đừng quên ghi nhớ thông tin cơ bản về người lái xe và biển số xe để tránh mọi bất ngờ có thể xảy ra.
Trước khi lập hợp đồng thuê xe, hãy nói rõ về các điều kiện, địa điểm bạn đi và lịch trình hành trình.
Di chuyển bằng xe máy hoặc xích lôHình thức giao thông phổ biến nhất ở Việt Nam là gì? Đó là xe máy hoặc xe tay ga.
Nếu bạn du lịch một mình, xe máy chính là phương tiện đi lại ở Việt Nam lý tưởng nhất, mang đến những trải nghiệm du lịch thực sự thú vị.
Bạn có thể thuê xe máy ở rất nhiều nơi, bao gồm cả khách sạn, quán cà phê và đại lý du lịch. Phương thức giao thông này chỉ phù hợp với những người can đảm vì giao thông ở Việt Nam có phần hỗn loạn và đông đúc, mặc dù nó là phương tiện đi lại phổ biến nhất của người Việt.
Nếu bạn thuê xe mô tô, xe gắn máy, hãy kiểm tra xe cẩn thận trước khi lái và nhớ rằng Việt Nam yêu cầu đội mũ bảo hiểm. Các trạm xăng nằm ở khắp đất nước, và đổ xăng cho từng chặng đi nhất định.
Nếu bạn chưa sẵn sàng vi vu trên đường, một lựa chọn khác là tìm xe ôm, Grab bikers hoặc bất kỳ loại “xe ôm công nghệ” nào tương tự (theo tiếng lóng Việt Nam).
Là một hành khách, bạn chỉ nhảy lên một chiếc xe máy hoặc xe tay ga phía sau người lái xe bản địa và để anh ta chở đi. Tuy nhiên, hãy thỏa thuận trước khi bắt đầu, nhớ đừng ngại mặc cả.
Ở những thành phố yên bình như Huế, bạn có thể đi xích lô với tốc độ chậm, nhưng nếu bạn chỉ muốn di chuyển giữa hai điểm đến, hãy tìm một chiếc xe ôm.
Xích lô là một phương tiện đi lại ở Việt Nam, mặc dù thực tế chúng bị cấm ở một số thành phố đông đúc. Với xích lô, bạn nên cố gắng thương lượng chi phí trước khi lên xe.
Di chuyển bằng taxiTaxi là phương tiện giao thông hợp lý ở Việt Nam. Bạn có thể tìm thấy nó ở hầu hết các trang web lớn. Nếu khách sạn hoặc các doanh nghiệp khác gọi taxi cho bạn, nó có thể đắt hơn một chút so với giá ban đầu vì khoản hoa hồng cho các doanh. Nếu đang muốn tiết kiệm, bạn nên cố gắng tự mình liên hệ một chiếc.
Taxi có đồng hồ tính tiền theo tiêu chuẩn quốc tế, và là cách gần như an toàn để đi lại vào ban đêm. Giá cước trung bình từ 12-15.000 đồng/1 km. Bạn chỉ nên đi các hãng taxi được giới thiệu hoặc có uy tín. Có một số hãng taxi trên toàn quốc có danh tiếng tốt như Mai Linh, Vinasun…
Một số taxi dựa trên ứng dụng (phục vụ cả xe máy và ô tô) bao gồm Grab, GoViet và Be đã có mặt tại một số thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng…
Mất bao lâu để đi vòng quanh Việt Nam? Lưu ý khi di chuyển tại Việt Nam
Do sự cố về taxi hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt nếu bạn kiệt sức sau một chuyến bay dài và mệt mỏi, bạn đặt dịch vụ đưa đón tại sân bay thông qua công ty du lịch hoặc khách sạn của mình.
Cẩn thận với đường xá và các mối nguy hiểm giao thông. Trên thực tế, giao thông đường bộ không phải là điểm mạnh của Việt Nam. Mạng lưới đường liên tỉnh của đường cao tốc 2 làn xe khá nguy hiểm. Ở Việt Nam, va chạm trực diện hay va chạm ở tốc độ cao là hình ảnh khá quen thuộc trên các tuyến đường chính.
Băng qua đường có lẽ là khó khăn lớn nhất đối với hầu hết những du khách lần đầu đến Việt Nam. Khi này tốt nhất là bạn không nên lao thẳng qua. Thay vào đó, hãy đi ngang qua để những người lái xe mô tô địa phương kịp né bạn.
Đi lại ở các vùng nông thôn của Việt Nam thường dễ dàng hơn ở các thành phố lớn.
Đăng bởi: Nguyễn Phấn
Từ khoá: 7 loại phương tiện đi lại ở Việt Nam thuận tiện nhất
Cập nhật thông tin chi tiết về Top 7 Các Loại Cây Thuốc Nam Quý Có Tác Dụng Chữa Bệnh Ở Việt Nam trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!