Xu Hướng 9/2023 # Tai Nạn Thương Tâm Của Những Đứa Trẻ Hiếu Động # Top 14 Xem Nhiều | Ycet.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Tai Nạn Thương Tâm Của Những Đứa Trẻ Hiếu Động # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tai Nạn Thương Tâm Của Những Đứa Trẻ Hiếu Động được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trước đó không lâu, một bé trai 4 tuổi ở phường Linh Chiểu, Thủ Đức, TP HCM cũng đã tử vong vì cánh cửa cuốn nghiến ngang cổ.

Theo điều tra của cơ quan chức năng, người bố chở con đến căn nhà anh đang phụ việc. Do phải ra phía trước đường quét dọn, sợ con chạy theo, người bố dùng điều khiển từ xa bấm cửa cuốn đóng lại. Bấm xong anh quay lưng đi mà không biết bé đang cố chui ra cửa.

Nghe tiếng hét của con, người bố quay lại thì thấy đầu của bé bị kẹt bên ngoài còn phần thân vẫn ở bên trong. Quá sốc, người bố ngất tại chỗ. Mọi người xung quanh nhanh chóng bấm cửa đưa cháu Ngọc Anh ra ngoài rồi chuyển vào bệnh viện cấp cứu, tuy nhiên cháu bé đã tử vong.

Còn tại căn hộ chung cư ở phường Phú Mỹ, quận 7, TP HCM trước đây vài tháng, một bé trai cũng được phát hiện đã tử vong trong lồng của chiếc máy giặt.

Theo thông tin từ cơ quan điều tra, sau khi không tìm thấy con trai, chủ hộ loay hoay đi tìm và hốt hoảng phát hiện em nằm gọn trong máy, cửa bị khóa. Khi cánh cửa máy được mở ra, bé đã nằm yên bất động.

Chiếc máy giặt của gia đình sử dụng là loại lồng ngang, cửa bên hông. Thời gian người nhà phát hiện bé, máy không hoạt động, bên trong không có quần áo, nước. Nguyên nhân được xác định là do bé hiếu động chui vào bên trong lồng máy giặt và khép cửa lại nên không ra ngoài được.

Cũng tại TP HCM, cô bé 4 tuổi đang ngồi chơi với chiếc iPad bên cửa sổ thì thấy máy tính bảng rơi ra ngoài nên nhoài người với theo chụp lại rồi bị ngã khỏi tầng 15 chung cư Phú Mỹ Thuận, huyện Nhà Bè, TP HCM. Thi thể bé gái nằm ngay cửa tầng giữ xe của tòa nhà, cách đó vài mét, chiếc iPad màu đen bị vỡ màn hình.

Tại quận 2, một phụ huynh khóa cửa để con trai 5 tuổi ở một mình trong căn hộ tầng 15 chung cư Bình Khánh để đi đón cậu con lớn đang học ở trường. Khi trở về, người bố chạy khắp căn hộ vẫn không thấy con. Đứng ở lan can nhìn xuống đất, phụ huynh này chết lặng khi phát hiện con mình nằm bất động trên thảm cỏ. Bé được đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong.

Thương tâm không kém, công an huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) trước đó cũng đã tiến hành điều tra về cái chết của một bé trai 20 tháng tuổi. Trước đó, anh Huỳnh Tấn Quất ở địa phương này điều khiển xe bồn chở dầu, chở theo vợ và 2 con trai vào cây xăng trên để nhập xăng. Trong lúc anh Quất lùi xe vào khu chứa xăng, vợ và 2 con trai xuống xe. Do không để ý, anh Quất đã cán trúng con trai mình đang đứng ở sau xe. Tai nạn xảy ra khiến cháu Phú bị gãy xương đùi và đã chết trên đường đưa đi cấp cứu.

Nhận định về những cái chết thương tâm xảy ra với trẻ, các bác sĩ cho rằng, phần lớn tai nạn là do sự hiếu động của trẻ. Bên cạnh đó, một số trường hợp hơp lỗi một phần do sự bất cẩn của phụ huynh. Bác sĩ Định khuyến cáo người lớn nên để mắt đến trẻ nhiều hơn, nhất là những trẻ trong độ tuổi hiếu động.

Theo Thiên Chương

Nguồn VNE

Những ‘Đứa Con Lai’ Kỳ Quái Của Thế Giới Động Vật

Thú ăn kiến + Armadillo (Tatu) = Pangolin (Tê tê)

Động vật có vú này giống như những con Tatu, sinh sống ở miền nhiệt đới châu Á và châu Phi.

Phần lớn các loại Tê tê sinh hoạt vào ban đêm, dùng khứu giác rất thính để tìm côn trùng, ban ngày thì cuộn tròn như quả bóng để ngủ.

Toàn thân Tê tê có lớp vảy cứng bao bọc, chỉ chừa phần bụng, mép vảy sắc và nhọn để giúp phòng thủ. Chúng còn tự vệ bằng cách xịt dung dịch axit hôi từ tuyến gần hậu môn.

Rùa + Nhím = Armadillo (Tatu)

Những con Tatu sống trong hang dưới lòng đất và ngủ tới 16 giờ/ngày. Chúng có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Toàn bộ phần lưng Tatu đều bọc lớp vỏ bằng chất sừng, gồm 1 mảng ở đầu và 2 mảng lưng.

Giữa 2 lớp sừng được nối với nhau bằng những chiếc vỏ nửa vòng tròn giúp chúng có thể cuộn tròn lại hay quay sang ngang.

Người ta dùng số đốt trung gian để đặt tên cho Tatu, như loài 7 đốt, loài 8 đốt và 9 đốt.

Vịt + Hải ly = Thú mỏ Vịt

Đây là một loài động vật có vú bán thủy sinh đặc hữu miền Đông Úc. Nó là 1 trong 5 loài thú đơn huyệt còn tồn tại.

Đặc điểm nổi bật của loài này là đẻ trứng, có mỏ như mỏ vịt, đuôi của hải ly, chân rái cá. Con đực có một cái cựa ở chân sau chứa chất độc gây đau nghiêm trọng cho con người

Hươu cao cổ + Ngựa vằn = Hươu đùi vằn

Hươu đùi vằn (tên địa phương là Okapi) hay Kỳ lân châu Phi là một loài hươu thuộc họ hươu cao cổ, sinh sống tại khu vực rừng rậm thuộc Cộng hòa Dân chủ Congo ở châu Phi.

Chúng có hình dáng giống con lừa với vẻ ngoài lai giữa hươu cao cổ và ngựa vằn.

Sóc chó + Tatu = Tatu hồng

Tatu hồng (Chlamyphoru truncatus) hay Pichiciego là loài nhỏ nhất thuộc chi Tatu, được biết đến nhiều nhất nhờ lớp mai cứng.

Chúng có chiều dài khoảng 9 – 11,5cm kể cả đuôi, có màu hồng và được tìm thấy ở miền Trung Argentina. Chúng có khả năng ‘độn thổ’ trong tích tắc mỗi khi hoảng sợ.

Hươu + Chuột = Cheo cheo nước

Cheo cheo nước là một loài động vật nhai lại móng guốc chẵn thuộc họ Cheo cheo. Nó thường dài khoảng 80cm và nặng chừng 10kg.

Cheo cheo nước có cơ thể tròn, chân mỏng với móng và đầu giống chuột. Con đực có răng năng nên còn được gọi là “nai răng nanh”.

Lỗ mũi của cheo cheo nước là khe hở mà nó có thể ép đóng để giữ nước.

Dê + Voi = Linh dương saiga

Loài linh dương Saiga đang có nguy cơ tuyệt chủng cao, từng xuất hiện ở khắp các vùng thảo nguyên rộng lớn ở Á – Âu từ dãy núi Karpat và Caucasus tới Dzungaria và Mông Cổ.

Đặc điểm nổi bật nhất là chúng có cái đầu lớn với phần mũi dễ chuyển động trông như chiếc vòi, có chức năng làm ấm và lọc bụi không khí trước khi đưa vào phổi.

Mùa hè, lông của Saiga ngắn lại nhưng khi thời tiết trở lạnh, nó lại tự nhiên dày và dài hơn. Saiga cũng hoạt động năng nổ hơn vào mùa đông.

Chuột hamster + Lợn = Dơi trắng Honduran

Sinh sống chủ yếu tại khu vực Trung Mỹ, khác với những người bạn cùng loài với mình, giống dơi trắng Honduras này chủ yếu sống ký sinh trên các thân và tán cây lớn.

Chúng nổi bật với lớp lông mao trắng muốt, cơ thể nhỏ bé với chiều dài chỉ khoảng 4cm.

Dơi Honduras sống bầy đàn khoảng 6 – 10 con. Những con dơi lớn thường cắn lá cây, cuộn quanh người dơi nhỏ trong đàn để bảo vệ chúng khỏi mưa nắng và các loài động vật ăn thịt.

Chúng chỉ cất cánh bay khi cảm nhận được có kẻ thù đang tấn công.

Lợn + Mực = Mực lợn

Mực lợn là một loài mực ống nhỏ sống ở độ sâu hơn 100m dưới đại dương. Nó có hình dáng béo tròn là do thói quen trữ nước trong cơ thể.

Các nghiên cứu cho thấy đầu của mực lợn ngược chiều so với thông thường, nguyên nhân có lẽ do thói quen di chuyển ngược của nó.

Đặc biệt, quanh mắt nó có phốt pho nên có thể phát sáng dưới đáy biển sâu.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM: Động vật có có cơ thể dài nhất

Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam (Dàn Ý + 23 Mẫu) Phân Tích 2 Đứa Trẻ

Phân tích bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam tuyển chọn 23 mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Thông qua phân tích 2 đứa trẻ cuộc sống của người lao động nơi phố huyện nghèo dần dần được hiện ra trong con mắt ngây thơ của Liên.

I. Mở bài:

Đôi nét về Thạch Lam: Một trong những cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn, ông có thế mạnh về viết truyện ngắn. Văn chương Thạch Lam rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn phù hợp cho nhận định trên

II. Thân bài:

1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:

Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên

Âm thanh: + Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.

Hình ảnh, màu sắc: + “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.

Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Nhịp điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu

⇒ Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

– Cảnh chợ tàn:

Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.

Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

– Con người:

Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.

Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.

Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.

Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.

Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

⇒ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.

c. Tâm trạng của Liên

– Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.

– Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.

Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

2. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

– Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:

“Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.

“Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

⇒ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…⇒ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.

Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau

⇒ Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé ⇒ kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b. Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:

– Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

Chị Tí dọn hàng nước

Bác Siêu hàng phở thổi lửa.

Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”

+ Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

⇒ Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.

Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào.

Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ” ⇒ mơ hồ, tội nghiệp

⇒ Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.

3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

– Liên và An thức bởi:

Để bán hàng

Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

– Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”

Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

– Khi tàu đến:

Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.

Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

– Khi tàu đi vào đêm tối:

Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.

Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

⇒ Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước

III. Kết bài:

Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của truyện ngắn

Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạch Lam: kết hợp hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị mà thâm trầm.

……………

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.

Nhưng Thạch Lam – người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu.

Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát, không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ờ tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng, nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: Văn chương không phải là một cách để thoát li hay lãng quên, mà trái lại, văn chương “phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”, là tiếng kêu thương thoát ra những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.

Cùng với những cây bút lớn chuyên viết về đề tài hiện thực đất nước trước năm 1945 như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Kim Lân, Vũ Trọng Phụng,… thì Thạch Lam cũng là một trong những ngòi bút xuất sắc và tiêu biểu nhất khi viết về đề tài này. Thạch Lam đã đặt riêng cho mình một tuyên ngôn rất thú vị khi làm nghề văn chương rằng: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Và bản thân nhà văn cũng tự chọn cho mình một lối đi rất riêng khi viết về số phận những con người trước cách mạng, với lối viết truyện nhưng không cần cốt truyện, ông chọn cho mình cách viết tỉ mẩn, tinh tế, thể hiện tài năng mà óc quan sát, cảm nhận sâu sắc. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, lãng mạn, nhưng ẩn chứa trong đó là những nỗi buồn man mác, lẩn khuất trong từng câu văn, Thạch Lam đã đem đến cho chúng ta bức tranh cuộc sống của những con người nhỏ bé, không ai nhớ mặt đặt tên, trong cái sự nghèo đói, khốn khổ và tăm tối nơi tỉnh lẻ. Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Thạch Lam khi viết về cuộc đời của những tiểu tư sản dưới số phận của những kiếp người tàn, nhưng ở họ vẫn luôn tồn tại một niềm hy vọng, một khát khao được thoát khỏi cuộc sống bế tắc ấy, để trông mong vào một cái gì đó tốt đẹp hơn.

Tuổi thơ của Thạch Lam là một tuổi thơ vất vả và cơ cực, bố ông là một trí thức tiểu tư sản, nhưng vì thời thế xã hội thay đổi thế nên ông mất việc, dẫn tới cả gia đình Thạch Lam phải chuyển từ thủ đô Hà Nội phồn hoa về quê ngoại ấy là thị trấn Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ đó hai chị em ông phải sống trong cảnh cơ cực, sớm bước vào đời vì cuộc sống mưu sinh ở đây, có lẽ chính vì thế mà nơi phố huyện này đã trở đi trở lại rất nhiều lần trong các tác phẩm của Thạch Lam. Đặc biệt trong Hai đứa trẻ những ấn tượng về một phố huyện tăm tối, nghèo nàn, yên ắng với những kiếp người tàn, và cả hình bóng người chị tên Liên đã để lại trong lòng độc giả nhiều xúc cảm không thôi.

Bức tranh phố huyện trong tác phẩm hiện lên trải dài trong khoảng thời gian từ chập tối đến tận giữa đêm, trong đó người ta vẫn ấn tượng nhất vẫn là cái cách mà Thạch Lam miêu tả về phố huyện lúc chiều tàn nơi tỉnh lẻ, lãng mạn, nên thơ và mang trong mình một nỗi buồn man mác. Bức tranh thiên nhiên được ở đầu bằng tiếng trống thu không “từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”, chậm rãi, kéo dài, uể oải, như nhấn sâu vào lòng người, bên cạnh đó là những tiếng “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng”, tiếng “muỗi bắt đầu vo ve” và cả tiếng chõng tre kêu cót két. Như vậy có thể thấy rằng buổi chiều nơi phố huyện là sự hiện diện của những kiểu âm thanh thưa thớt, chậm rãi, rời rạc, mang đến cảm tưởng về một nơi phố huyện vừa nhỏ bé, ảm đạm, lại còn nghèo khó, tối tăm, và nặng u buồn, mệt mỏi. Thứ hai nữa, ta sẽ lại càng thấy rõ cảnh ngày tàn thông qua những gam màu mà Thạch Lam đã tinh tế đưa vào “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, đó là thứ màu đỏ, màu hồng rực rỡ. Những tưởng sẽ đem đến một cái gì đó tươi vui, thế nhưng trong Hai đứa trẻ, nó lại là những dấu hiệu rõ rệt của ngày tàn, là sự bừng lên rực rỡ của ánh mặt trời cuối cùng trong ngày, là cái ánh sáng duy nhất còn sót lại trước khi màn đêm buông xuống. Hình ảnh hoàng hôn ấy tuy đẹp, tuy lãng mạn như một bức tranh của người nghệ sĩ đa tài nhưng lại nhuốm những màu buồn man mác về sự kết thúc, để vào hồn người sự tiếc nuối xa xăm. Và người ta có lẽ càng ấn tượng hơn với đường nét ngày tàn mà Thạch Lam đã vẽ ra đó là “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Một hình ảnh khiến độc giả nhận thức rõ rệt được cái giây phút chuyển giao giữa ngày và đêm khi mà trên cái nền trời xanh thẳm còn hơi sang sáng bởi ánh mặt trời chưa tắt hẳn lại in trên đó bóng lũy tre già sắc nét, tựa như một bức tranh thủy mặc ảm đạm, yên ắng vô cùng. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên chính là sự hiện diện của những kiếp người tàn khi bóng chiều buông, ở đó người ta chỉ thấy sự uể oải chán nản, cùng những chuyển động chậm rãi và lặng lẽ. Đó là hình ảnh một buổi chợ tàn, đã tắt đi những tiếng huyên náo thay vào đó là cảnh “trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”, cùng với cảnh tượng mấy đứa trẻ con bé xíu, tội nghiệp đang cố sức nhạy nhảnh, bới tìm trong đống rác bẩn thỉu cốt để tìm được thứ gì đó còn dùng được. Hình ảnh ấy khiến người ta không khỏi xót xa trước những số phận tàn tạ, bất hạnh trước cái nghèo đói xơ xác và ảm đạm nơi phố huyện. Và còn cả cái mùi “âm ẩm bốc lên…” cũng gợi ra một cách sâu sắc sự ẩm thấp, bẩn thỉu, chán chường nơi tỉnh lẻ nghèo khó và tăm tối này. Đi cùng với cảnh ngày tàn, chợ tàn chính là sự xuất hiện của những kiếp người tàn, những đứa bé nghèo khổ, tội nghiệp nhặt nhạnh rác rưởi ở ven chợ, phải lao vào công cuộc mưu sinh khi còn quá nhỏ, mẹ con chị Tí với cuộc sống mưu sinh vất vả ngày mò cua bắt ốc, đêm lại bán hàng Đêm lại bán hàng rong, với số khách lưa thưa, ít ỏi, sống cuộc đời lay lắt, ảm đạm. Rồi hình ảnh bà cụ Thi điên, nghiện rượu với tràng cười ghê rợn ám ảnh, khiến người ta dễ liên tưởng đến cuộc đời đầy sóng gió đau thương của người phụ nữ khốn khổ này. Và cuối cùng chính là hình ảnh chị em Liên, hai đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, nhưng cũng phải sớm tìm đường mưu sinh chôn vùi cuộc đời bên cái quán tạp hóa sập xệ, trên cái chõng tre mục nát, ẩn sau hai chị em Liên chính là sự xuất hiện thoáng qua của người mẹ, một người đàn bà tần tảo lam lũ, làm công việc buôn hàng xáo đầy vất vả. Tất cả những kiếp người ấy đều cho ta chung một cảm nhận về cái nghèo đói, ảm đạm, chán chường và thiếu sức sống nơi phố huyện, khiến người ta thấy một cái gì đó tối tăm và bế tắc vô cùng.

Và trong những kiếp người tàn, Thạch Lam đã chọn Liên làm nhân vật chính, một cô bé tầm 9 10 tuổi đầu, nhưng có lẽ vì sống trong nghèo khổ và công việc mưu sinh từ tấm bé, thành thử ra ở chị luôn có sự trưởng thành trước tuổi và đặc biệt là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thương con người vô cùng ấn tượng. Sự nhạy cảm tinh tế của Liên đã hiện lên từ những dòng đầu của tác phẩm với cái hình ảnh “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”, cái cách chị nhìn nhận về cảnh chiều tàn nơi phố huyện khiến chị trở nên khác biệt. Bởi lẽ rằng với một đứa bé 9 10 tuổi, thì nỗi buồn, nỗi ảm đạm của quê hương có lẽ là một cái gì đó mơ hồ lắm, thậm chí có khi còn chẳng nhận ra được, nhưng Liên thì khác chị suy tư và thấm thía cái nỗi buồn của thiên nhiên, để nó thấm đẫm vào tâm hồn mình, để lại trong tâm hồn non nớt của chi những nỗi niềm suy tư man mác. Sự tinh tế, nhạy cảm của Liên còn thể hiện ở cảm nhận của chị về cái mùi riêng của đất quê hương “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Đó rõ ràng không phải là một mùi gì thơm tho dễ chịu gì cho cam, mà lại là một cái mùi ngai ngái, âm ẩm xộc thẳng vào mũi khiến người ta khó chịu, bức bối. Nhưng đối với Liên, thì đó lại là mùi đặc trưng của của quê hương, mà chị cảm thấy thân thiết, yêu thương và gắn bó vô cùng. Không chỉ tinh tế ở cảm nhận và sự tinh tế nhạy cảm của Liên còn thể hiện trong cái cách chị quan tâm và yêu thương người khác, đối với mẹ con chị Tí là ánh nhìn thương cảm, xót xa, đối với bà cụ Thi điên là sự ái ngại, cảm thông cho một kiếp người tàn lụi, đối với mấy đứa trẻ ven xóm chợ là sự tội nghiệp, thương xót nhưng bản thân chị cũng bất lực vì không thể giúp gì được cho chúng, bởi chính cuộc đời chị cũng nghèo khổ và tăm tối.

Bức tranh phố huyện lúc đêm xuống không có nhiều điểm nhấn như cảnh ngày tàn, thế nhưng nó vẫn mang và truyền tải được một cách trọn vẹn sâu sắc cái sự ảm đạm, tối tăm và u buồn của nơi tỉnh lẻ. Điều ấy bắt đầu đến từ cách mà Thạch Lam miêu tả bóng đêm, mà có lẽ người ta chẳng thấy cái bóng đêm nào nó vừa đen đặc lại vô tận đến thế “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Dĩ nhiên ánh sáng cũng xuất hiện, thế nhưng dường như nó chỉ làm cho bức tranh bóng tối ở nơi đây thêm rõ nét, bởi dương như sự hiện diện của những “khe sáng, “hột sáng” thoát ra từ vách nhà, hay cái “quầng sáng” tù mù lay động từ cái ngọn đèn dầu con con của chị Tí, cùng với cái ánh lửa dẫu chiếu sáng cả một vùng đất cát nhưng nhạt nhòa và mờ nhạt của bác Siêu, đều chẳng thể làm thay đổi được cái tối tăm vô tận này. Thay vào đó những nguồn sáng yếu ớt ấy dường như bị bóng đêm khỏa lấp, nuốt trọn, khiến không gian càng trở nên ảm đạm và chán chường hơn, càng khiến người ta cảm tưởng về những cuộc đời đang leo lét như thứ ánh sáng tu mù đang hiện lên trong đêm tối, chẳng đủ để soi sáng con đường đời. Giữa cái bóng đêm mịt mùng, người ta thấy hiện lên những kiếp người tàn, hình ảnh vợ chồng bác Xẩm với tiếng đàn bầu bần bật, thiểu não, đứa con nhỏ bò cả ra đất nghịch những rác rưởi bẩn thỉu, thấy mà xót xa. Mẹ con chị Tí chán chường phẩy ruồi bên gánh hàng nước, ế ẩm và ảm đạm. Gánh phở bác Siêu nghi ngút khói, nhưng cũng ế khác, bởi đó là thứ quà sang, không hề hợp với nơi phố thị nghèo nàn. Còn chị em Liên từ sáng đến tối muộn mãi chôn chân trên cái chõng tre mục nát, không được sống một cuộc đời vui chơi thoải mái như bao đứa trẻ khác mà đã sớm phải tất bật mưu sinh vì mấy đồng tiền lẻ khi bán được bánh xà phòng, cút rượu bé tí,… Nhưng có một điều thú vị rằng trong cái không gian tăm tối, bi ai ấy chí ít người ta vẫn còn thấy được sự hiện diện của ánh sáng trong tâm hồn con người khi “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”, đó là mong ước là hy vọng về một cuộc đời tươi sáng tốt đẹp hơn, là ước mơ thoát ra khỏi cái ảnh bế tắc, tối tăm dẫu rằng nó còn rất mơ hồ và xa xăm.

Sau bức tranh phố huyện ở hai thời điểm chiều tàn và đêm tối thì sự xuất hiện của đoàn tàu đêm đã đem đến cho phố huyện một viễn ảnh khác hẳn, là điểm nhấn thể hiện những giá trị tư tưởng mà Thạch Lam muốn truyền tải. Có lẽ người ta thấy ấn tượng với cái cảnh những con người nơi phố huyện cố nén mệt mỏi để trông mong chuyến tàu đêm, chuyến tàu mỗi ngày đều có một lần. Thế nhưng có ai biết rằng chuyến tàu ấy vô cùng có ý nghĩa với những con người nơi đây bởi “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”, mang một cái gì đó khác lắm, có lẽ là ánh sáng, sự phấn khởi, là tượng trưng cho niềm hy vọng le lói trong trái tim mỗi con người. Thế nên khi có những dấu hiệu đầu tiền của đoàn tàu bác Siêu đã nhanh nhạy reo lên một cách sung sướng: “Kìa đèn ghi đã ra kia rồi” để thức tỉnh mọi người, đoàn tàu xuất hiện phía xa xa với hình ảnh “một làn khói trắng bừng sáng lên từ đằng xa”. Chị em Liên đều đứng dậy khỏi chõng để kịp chiêm ngưỡng dáng vẻ của con tàu, với niềm háo hức và say mê khôn cùng, mà đối với An nó như một món đồ chơi, còn đối với Liên thì đoàn tàu đã mang về cho chị những ký ức xa xăm tươi đẹp khi còn ở thủ đô. Đoàn tàu xuất hiện với những âm thanh vang dội, mạnh mẽ “tiếng dồn dập, rít mạnh vào ghi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới” khác hẳn với những âm thanh yếu ớt, chậm rãi và thiểu não nơi phố huyện. Thứ ánh sáng mà đoàn tàu mang tới cũng khác hẳn “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” đối lập hoàn toàn với thứ ánh sáng từ mù từng hột, từng vệt, nhạt nhòa nơi phố huyện. Thêm vào đó nhưng chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát của con tàu cũng đem đến một không khí khác hẳn, rộn ràng náo nhiệt “tàu rầm rộ đi tới”, “đoàn xe vụt qua” làm lu mờ đi cái chuyển động khe khẽ, từ từ, rời rạc của nơi tỉnh lẻ tối tăm, bế tắc. Đoàn tàu ấy từ Hà Nội về, nó đã mang đến cho Liên những cảm xúc khó tả, bởi đoàn tàu là biểu trưng của sự sung túc giàu có, làm chị nhớ về những ngày mình còn ở Hà Nội, thầy còn nhiều tiền, được hưởng cuộc sống ấm êm, được nếm những thức quà ngon, được thỏa sức vui chơi, là thế giới mà Liên và cả những con người nơi đây đều khát khao mơ tưởng. Thế nhưng khi đoàn tàu đi qua, phố huyện lại trở lại với vẻ ban đầu của nó, thậm chí còn tối tăm và chán nản hơn, bởi người ta không còn gì để mong chờ nữa, một ngày dài đã thật sự kết thúc, người tản đi, yên ắng đến vô cùng, chỉ còn tiếng chó sủa giữa đêm khuya.

Có thế mới thấy được rằng, đọc văn Thạch Lam mới đầu tác giả chỉ viết khơi khơi, kể về những điều quá đỗi vụn vặt, nhỏ bé và tầm thường, thế nhưng đến khi đọc đến những dòng chữ cuối cùng ta mới thấm thía được cái dụng ý của nhà văn. Cái đẹp len lỏi khắp hang cùng ngõ tận, mà điều ông làm chính là khai thác nó để cho mọi người cùng được chiêm ngưỡng, nó lại giống như việc ông vẽ ra vẻ đẹp của cảnh ngày tàn, phác họa tâm hồn tinh tế và nhạy cảm của Liên và đi kèm theo đó là những giá trị nhân sinh vô cùng sâu sắc, để mọi độc giả đều phải suy ngẫm.

Thạch Lam là cây bút nhẹ nhàng, sâu lắng trong nhóm Tự lực văn đoàn, một phong cách không thể lẫn lộn với bất cứ ai. Mỗi trang văn của ông là những lời thủ thỉ tâm tình cuốn hút người đọc. Đó là những câu chuyện không có cốt truyện được viết lên bởi chất liệu nhẹ nhàng, man mác, tiêu biểu là tác phẩm Hai đứa trẻ.

Sự tinh tế, nhẹ nhàng trong những câu văn làm nên nét độc đáo của Thạch Lam. Câu chuyện Hai đứa trẻ xoay quanh cuộc sống của Liên và An ở phố huyện nghèo với công việc lặp đi lặp lại hằng ngày. Qua Liên và An, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Ẩn hiện trong truyện ngắn là khung cảnh phố huyện nghèo. Mở đầu là tiếng trống thu không vang lên trong buổi chiều tà, khi cảnh vật và con người đang đắm mình vào không gian lơ đãng. Tại sao Thạch Lam chọn buổi chiều tà mùa thu để vẽ lên bức tranh phố huyện? Phải chăng mùa thu gợi buồn, gợi nhớ, gợi cho con người ta nhiều cảm xúc. Khu phố nghèo lúc ngày tàn gợi sự đìu hiu, tàn phai trước mắt người đọc, đó cũng chính là hiện thực xã hội thời bấy giờ ở nước ta, mọi thứ không có sức thu hút và dường như không thấy có sự sống, mọi thứ gần gũi nhưng phảng phất sự nghèo đói.

Trong con mắt của Liên và An, phố huyện hiện lên xơ xác, nghèo đói trước cảnh bãi chợ vắng vẻ, khi người về hết. Ống kính của Thạch Lam lia qua những rác rưởi khi chợ quê vãn người và miêu tả một mùi vị đặc trưng riêng khiến hai đứa trẻ tưởng là mùi riêng của đất, của vùng quê này. Cứ thế, phố huyện ám ảnh hai đứa trẻ, ám ảnh bạn đọc bởi những hình ảnh, màu sắc và hương vị như thế suốt bao năm qua.

Những đứa trẻ nghèo khổ hiện ra trong khung cảnh tiêu điều, xác xơ thêm nhếch nhác. Chúng đi nhặt những thứ rơi vãi còn sót lại. Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ống, tối tối xác điếu đóm dọn hàng, gia đình bác Xẩm ngồi bên manh chiếu rách với chiếc thau sắt trắng để trước mặt, bà cụ Thi điên uống rượu rồi cười khanh khách đi vào trong bóng tối… Từng ấy những kiếp sống lầm than, tàn tạ có cả chị em Liên. Trong con mắt của Liên, cuộc sống chìm trong màn đêm mênh mông không lối thoát, chỉ có ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, rồi ngọn đèn hoa kỳ vặn nhỏ….

Phố huyện lúc chiều tà tựa như khúc nhạc buồn điệp đi điệp lại chẳng biết bao giờ chấm dứt, đơn điệu và buồn tẻ. Liên và An làm sao có thể ý thức được sự buồn chán, bế tắc mà bọn trẻ đang phải sống cũng như những khát vọng mơ hồ của mình về cảnh tù đọng nơi đây. Nhưng với sự nhảy cảm, bé Liên cảm nhận được khát vọng tinh thần của chính mình, khát vọng thoát khỏi cảnh tối tăm, tù đọng mà tới một thế giới khác. Minh chứng cho khao khát này là hành động thực đợi chuyến tàu đêm đi qua. Con tàu đi ngang qua phố huyện như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với thế giới hai đứa trẻ đang sống, cũng là ánh sáng nhưng không phải là vầng sáng của ngọn đèn chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu.

Thạch Lam không đi sâu miêu tả xung đột xã hội, ông là một nhà văn lãng mạn vì thế một bức tranh phố huyện nghèo, dung dị tới từng chi tiết. Một bức tranh làng quê Việt Nam mù xám với những người lao động nghèo khổ đang phải sống quanh quản trong tối tăm, bế tắc. Nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thương chân thành tới những phần người ấy, muốn thay đổi cảnh nghèo khổ, tối tăm cho những con người ấy.

Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương, ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ vừa bộc lộ thái độ đồng cảnh, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quẩn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những câu văn êm dịu, với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đây là một trong nhiều bằng chứng ở tác phẩm này cho thấy: “Văn của Thạch Lam thường hiếm khi thừa lời, thừa chữ, không uốn éo làm duyên một cách cầu kì kiểu cách, nhưng vừa giàu hình ảnh và nhạc điệu, lại vừa uyển chuyển, tinh tế (Vũ Ngọc Phan). Nó không những cho người đọc nhìn thấy cảnh vật mà điều quan trọng hơn là khơi gợi ở họ tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật lại phần nhiều đều rất gần gũi, bình dị và mang cốt cách Việt Nam.

Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ. Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau để trước mặt, “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.

Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong các bên đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, “cụ đi lần vào bóng tối”. Chị em Liên phải thức để trông “một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng “bán chẳng ăn thua gì”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để mà cho chúng nó”.

Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi “được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ” không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế nhưng, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lọi của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”…

Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua lời văn và những chi tiết dường như rất khách quan.

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra, “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi, nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ, lam lũ sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội thực dân nửa phong kiến? Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt.

Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác Xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, “cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạo ra thăm hàng một lần”…

Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ đến một số câu thơ trong bài Quẩn quanh của Huy Cận:

Hãy nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của những nhân vật như Quỳnh và Giao trong thiên truyện ý tưởng Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu. Tuy thế, những người dân phố huyện vẫn hy vọng cho dù hy vọng đó rất mơ hồ: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Chính sự mong đợi mơ hồ này dường như càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người: dựng cảnh và cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường “truyện không có chuyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy.

Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian. Gam màu chủ đạo của khung cảnh là màu đỏ như lửa cháy: “Phương tây đỏ rực như cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn” . Những sắc màu này thường gợi lên sức sống, sự ấm nóng như với bức tranh của Thạch Lam lại chỉ gợi lên sự lụi tàn, mặt trời sắp lặn, những đám mây cũng như hòn than sắp tàn. Sự ảm đạm, buồn rầu bao trùm lên cảnh vật khi bóng chiều dần buông.

Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn,… những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên. Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.

Liên là một cô gái mới lớn, tinh tế và nhạy cảm, trong khoảnh khắc của ngày tàn đã nhanh chóng nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên. Em cảm nhận thấy mùi vị của quê hương trong phiên chợ đã tàn: “một mùi ẩm mốc bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…” ấy là mùi vị đã thấm sâu trong tâm hồn em, tâm hồn của một người gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương.

Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn. Liên sửa soạn, vội vàng “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại” và nhẩm tính những món hàng đã bán được trong ngày. Rồi lần lượt chị Tí, bác xẩm, gánh phở bác Siêu xuất hiện. Chị Tí dọn hàng nước chờ đợi những khách hàng quá quen thuộc đi qua vào uống chén trà. Gánh phở bác Siêu lại là món ăn xa xỉ với người dân phố huyện, bởi vậy lúc nào cũng vắng khách. Bác xẩm gảy lên “mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” thu nhập chẳng đáng là bao. Hình ảnh cụ Thi điên có lẽ đã gây biết bao ám ảnh với người đọc, cụ triền miên trong cơn say, bước đi lảo đảo, dường như cụ tìm đến với hơi men để lãng quên thực tại cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, để quên đi những nỗi đau của thực tế. Những người dân phố huyện vẫn gắng gượng sống qua ngày, họ sống cuộc đời mòn mỏi, mà chưa thể tìm ra lối thoát cho chính mình. Họ cũng mang trong mình mơ ước “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn…” nhưng đó chỉ là mơ ước mơ hồ, chập chờn, vu vơ, không có đích đến. Nhưng ước mơ đổi đời của những người dân phố huyện cũng được tác giả nâng niu, trân trọng.

Trong khoảnh khắc của ngày tàn, khi bóng tối đã ngập đầy mọi nơi, Thạch Lam một cách rất tinh tế đã tìm ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, đầy lãng mạn của cảnh vật thông qua những cảm nhận nhạy bén của nhân vật Liên. Cô bé thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh, tưởng tượng đó là dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân thần nông. “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ…” Liên quả là người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, khi “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối” em vẫn tìm thấy những nguồn sáng khác nhau từ thiên nhiên, cảm nhận cái rơi thật khẽ, thật êm của hoa bàng rụng. Liên tìm đến ánh sáng không phải là một điều ngẫu nhiên, ánh sáng ấy chính là mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn của Liên. Em tìm nguồn sáng sáng xua tan đi bóng tối: khe sáng, hột sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng nhỏ bé, mong manh, yếu ớt, không đủ để xua đi bóng đêm. Đây đồng thời cũng là khao khát đổi đời để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của thực tại.

Nhưng có lẽ đẹp nhất, rực rỡ nhất chính là khoảnh khắc khi đoàn tàu vụt qua phố huyện nghèo. Không ai ngủ, không ai về trước khi đoàn tàu đi qua, ai cũng cố thức để chờ đoàn tàu đến, không phải là để cố gắng bán thêm được thứ gì, vì hầu như không có ai mua, mà là bởi để thấy được chút ánh sáng của sự sống, của niềm tin, hy vọng. Cũng bởi vậy mà, mặc dù đã buồn ngủ nhưng An vẫn cố nhắc chị khi nào đoàn tàu đến hãy gọi em dậy, trong mong manh vô thức, An cũng có khao khát đổi đời như tất cả người dân nơi đây. Khi đoàn tàu xuất hiện, tiếng reo lên đầy vui sướng: “đèn ghi đã ra kia rồi”, hồi còi tàu hỏa kéo dài, làn khói sáng trắng xuất hiện từ phía xa. Đoàn tàu vụt qua mang đến biết bao âm thanh: “tiếng xe rít mạnh vào ghi” , “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên”, đó là sự náo nhiệt, ồn ã, đông vui trái ngược hẳn với sự tĩnh lặng của phố huyện. Trên các toa tàu sáng rực “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh” nó gắn liền với cuộc sống sang trọng, giàu có trong phút chốc xua đi bóng tối, sự ảm đạm của cuộc sống nơi đây. Đoàn tàu đi qua, người ta vẫn cố nhìn theo đóm lửa xanh cho đến khi nó mất hẳn. Nếu đoàn tàu đi qua mang lại ánh sáng rực rỡ như sao băng thì giờ đây ở phố huyện chỉ còn lại vầng sáng nhỏ bé, leo lét, đêm tối lại bao bọc xung quanh. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ, của Hà Nội, gợi về một thế giới thần tiên mà hai đứa trẻ từng được trải nghiệm, là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà hai đứa trẻ cũng như tất cả người dân phố huyện đang khao khát.

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ.

Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống.

Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo.

Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng.

“Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương dây cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện.

Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”.

Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc.

Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dày đặc mà thôi.

“Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi là Nguyễn Tường Lân, ông là em trai của hai nhà văn nổi tiếng là Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long). Sinh ra ở huyện Cẩm Giàng_Hải Dương (quê mẹ), lớn lên học Trung học ở Hà Nội sau bỏ học đi làm báo, viết văn. Tác phẩm của ông để lại không nhiều nhưng mỗi một sáng tác là một thành công riêng. Ông được người đời đánh giá là “Cây bút có biệt tài về truyện ngắn”. Tiêu biểu là tác phẩm “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” thể hiện tài năng về truyện ngắn là truyện không có cốt truyện, chủ yếu đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật và minh chứng cho văn phòng riêng biệt, độc đáo của Thạch Lam là giản dị, trong sáng mà thâm trầm sâu sắc.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” bên cạnh việc miêu tả không gian cảnh vật bên ngoài và những cảnh người dường như không có gì nổi bật đáng chú ý, nhưng đi vào nơi bên trong sâu lắng của tâm hồn mới phát hiện ra những điều tinh tế gợi lên biết bao nỗi xót xa, thương cảm cho những kiếp người nghèo khổ và trân trọng cho ước mơ của họ. Truyện kể về hai nhân vật chính Liên và An, hai chị em từng sống ở Hà Nội huyên náo khi cha bị mất việc gia đình phải chuyển về phố huyện nghèo mưu sinh, hai đứa nhỏ được mẹ giao cho công việc trông coi cửa hàng tạp hóa bé xíu để kiếm thêm thu nhập. Tất cảnh cảnh vật và con người nơi đây trong từng khoảng thời gian từ chiều tàn cho đến đêm khuya được Liên thu vào trong tầm mắt và cảm nhận thật tinh tế.

Cảnh vật bên ngoài được Thạch Lam miêu tả qua cái nhìn của Liên có khi đứng từ xa quan sát bao trùm lên tất cả, khi thì lại cận cảnh từng chi tiết nhỏ bé. Khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận cả hai chiều về không gian và thời gian. Mở đầu là buổi chiều tà hoàng hôn buông xuống, bóng tối dần bao phủ. Khung cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện lên những kiếp người tàn tạ. Bức tranh thiên thiên nhiên về chiều mở đầu là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ”_ âm thanh đầu tiên báo hiệu kết thúc một ngày, chuẩn bị cho thời khắc lúc về đêm. Nói là phố huyện nhưng là cái huyện nhỏ xíu, tiêu điều. Hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi nho nhỏ lẩn vào trong dãy tre làng đang đen lại vào lúc trời tây rực đỏ như hòn than sắp tàn, chen lẫn là tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve trong màn đêm tối. Điều đó khiến cho Liên – cô gái có tâm hồn nhạy cảm “bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thía vào tâm hồn” khi ngồi bên cạnh “Những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy bóng tối”. Đoạn văn mở đầu của Thạch Lam êm du, dịu nhẹ vừa giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu và uyển chuyển, tinh tế như bản nhạc tình ca gợi ra cuộc sống vừa bình yên lại vừa hoang tàn và nghèo nàn nơi thôn dã. Những con người ở huyện nhỏ hiện lên là những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những thứ gì còn dùng được sau buổi chợ chiều, từ láy “lom khom” được Thạch Lam sử dụng càng đậm tô sự cơ cực vất vả mà những đứa trẻ đáng lẽ phải được học hành vui chơi đang gánh chịu. Mẹ con chị Tí vẫn dắt díu nhau ngày này qua ngày khác với hai công việc đều đặn là mò cua bắt tép ban ngày tối đến trông chờ vào gánh nước chè dưới gốc bàng trong màn đêm. Hai chị em Liên với cái quán tạp hóa bán những thứ đồ lặt vặt. Ống kính quan sát của nhà văn lia đến cả những thứ rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá mía, lá nhãn trên nền đất có cả mùi của cát bụi và mùi ẩm mốc quyện vào nhau tạo thành mùi của quê hương nghèo khó. Thạch Lam có một tâm hồn thật tinh tế cảm nhận được từng chi tiết nhỏ cho thấy tấm lòng dào dạt của ông với quê hương.

Bức tranh phố huyện khi về đêm các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng yếu ớt ấy không thể xua tan đi màn đêm, không thể chiến thắng nổi bóng tối. Ánh sáng của nhà bác phở Mỹ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu và đèn dây sáng xanh trong nhà hiệu khách càng làm cho “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Xung quanh Liên bóng tối đang dần bao trùm. “Tối hết cả con đường thăm thẳm sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa”. Bác phở siêu lom khom nhóm lửa trong đêm khiến cho “bóng bác càng mênh mang ngả xuống một vùng và kéo đến tận đàng xa”. Gia đình nhà bác xẩm vẫn đang đợi giọt hạnh phúc rơi với cái thau còn trống trơ, thằng con thì bò ra đất. Liên và An đã dọn hàng xong, cô bé thả hồn mình với cảnh vật xung quanh, lắng mình quan sát “ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Tâm trạng của một cô bé nhạy cảm như vậy chẳng có gì là khó hiểu, trước cảnh vật hiu quạnh trách sao được lòng mình cũng buồn theo. Thạch Lam thật tinh tế khi đi sâu khai thác thế giới nội tâm của cô gái mới lớn.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.

Nhưng Thạch Lam – người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu.

Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát., không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mé ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Có một thời, lối “tư duy từ điển” đã làm bó tay không ít người nghiên cứu văn học Việt Nam, đẩy họ đến tình trạng loay hoay trong “cái rọ” của khái niệm. Dựa vào khái niệm, người ta khảo cứu văn chương như một thực thể bị chia cắt một cách siêu hình thành những dòng, những khuynh hướng khác nhau. Khi đem những tiêu chỉ của chủ nghĩa hiện thực phê phán quy chiếu vào văn học 1930 1945 sẽ dễ thấy nổi lên tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… còn nhiều sáng tác của Thanh Tịnh, Thạch Lam… Như bị lừa vào cái dòng lãng mạn (mà lãng mạn trong cái dân tộc lầm than thì không thể tha thứ!). Tuy nhiên, lịch sử bao giờ cũng mang tính khách quan của nó, “tư duy mới” đã gạt bỏ những hướng đi duy lý chủ quan, để tuy chậm, song chưa muộn, mấy năm gần đây Thạch Lam và một số “danh bút” của một thời văn chương được khẳng định trở lại.

Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn mà tri thức phương Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn “thuần Việt”. Sáng tác của ông trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn cảm, một nhân cách văn hóa, một người bạn của lớp người nghèo khổ ở thời đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chỉ khác với “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”… ở điển hình và tiếng nói riêng của tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.

Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý tới hai khu vực cơ bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú tồn tại ở “ranh giới mờ” giữa lối sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố huyện có thế được coi như trạm trung chuyển của sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai lối sống cơ bản của xã hội để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời của Thạch Lam (thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng xã và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội.

Dạo quanh bất kỳ một phố huyện nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh tồn, đặc điểm kinh tế… của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu được những nét lớn của xã hội, vì lẽ, mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước” tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống; bên những ưu điểm còn buộc nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ. Đã từ lâu, nhiều người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo kiểu văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để nhận chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhất trong xã hội lúc đó là những người nghèo.

“Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều về. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn trong lò. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”… Phố huyện lúc chiều tàn thật thanh bình, yên ả; cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con chị hàng nước lại dọn cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại chờ khách đến nghe…”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”… Thật ra, nhịp điệu sống không nhất thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội đù tươi đẹp vẫn có những ngày hè mưa buồn, những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự nhiên. Còn cái đêm u tịch được Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, những chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”… Dạng huống số nhiều của hành động chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phố huyện, nhàm chán nhưng vẫn lặp lại vì miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn thua gì”. “Cũng như mọi đêm Liên không còn trông mong còn ai đến mua nữa”, một cách kiếm sống hú họa, vật vờ.

Tác giả đồng điệu với Liên và những người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ không gian rộng đến sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con ngõ rộng dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Tối đến mức cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”. Vài ánh sáng len qua phên nứa, ngọn đèn con của chị hàng nước, cái bếp lửa của bác hàng phở trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến ngay cả âm thanh cũng chìm nghỉm trong đó: “Tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng”. “Trống cầm canh ở phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối”. Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất thực, thực bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”, “tâm hồn Liên yên tình hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người quanh Liên qua những mẩu đối thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những câu trả lời cũng đã quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.

Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh lặng đem lại cảm giác nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa”, “vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua thinh không phố vắng vào lúc chín giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác. Nó lướt qua phố huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó xa xăm. Nó là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy vọng. Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời gian và làm tăng nỗi đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.

Thạch Lam thực sự sáng tác chỉ trong khoảng 6 năm, và mất khi mới 32 tuổi. Tuy vậy, ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên đường hiện đại hoá, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn.

Nói đến những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, không thể không kể đến tác phẩm Hai đứa trẻ (rút trong tập Nắng trong vườn. NXB. Đời nay,1938). Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng” êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương. ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm thương xót đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ; vừa bộc lộ tình cảm gắn bó đối với quê hương đất nước.

Hai đứa trẻ có những nét rất tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn Thạch Lam: yếu tố lãng mạn xen lẫn yếu tố hiện thực, truyện mà không có truyện, câu tứ tựa hồ như một bài thơ….Tất cả thể hiện một tâm trạng mơ hồ bâng khuâng của hai chị em Liên và An khắc khoải chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua, trong không khí tẻ nhạt của phố huyện nghèo nàn, vào một buổi tối mùa hè yên ả.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết, chúng ta có ấn tượng về cuộc sống tàn tạ, tù túng của những kiếp người lam lũ quẩn quanh, sống không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều; phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như “hòn than sắp tàn”. Thì ra: cái rực rỡ huy hoàng của một ngày đã qua rồi; buổi chiều tà đang đến. Giờ này chợ cũng đã tàn. Cái lòng vui đã mất để lại sự trống vắng hiu quạnh. “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, chỉ còn lại mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại. Tất cả đều gợi nên “cái buồn của buổi chiều quê”.

Bên cạnh cảnh ngày tàn là những kiếp người tàn. Hàng nước chị Tí vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm nhưng chả kiếm được là bao nhiêu”. Bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng”. “Thằng con bò ra đất (…) nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ty, “cụ đi lần vào bóng tối”. Chị em Liên phải thức để “trông một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, dọn từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng bán chẳng ăn thua gì”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để cho chúng nó’. Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều đêm “được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là món quà xa xỉ không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế mà, có lẽ dẫu sao, gia đình Liên cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm….” Mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mòn mỏi….

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên nhà văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần chi tiết ngọn đèn của chị Tí. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh gây ấn tượng day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Phải chăng hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ lam lũ, sống vật vờ leo lét, trong màn đêm của xã hội cũ?

Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu uể oải. Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí “cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”; bác phở Siêu nhóm lửa, gia đình bác Xẩm chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục đi gợi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tính tiền hàng rồi cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần”….

Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối”, ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng”. Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ tới một số câu trong bài thơ Quẩn quanh của Huy Cận:

Tuy thế, họ vẫn hy vọng mơ hồ, “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ. Chính sự mong đợi mơ hồ này tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người, dựng cảnh và ở cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Hai Đứa Trẻ được Thạch Lam viết năm 1938, trích ra từ tập Nắng Trong Vườn. Tác phẩm kể về thời gian từ chiều đến đêm khuya nơi phố huyện, cảnh sinh hoạt của con người nơi đây. Tác giả đã đi sâu vào cảm xúc từng nhân vật, và cuộc sống, niềm hy vọng của họ.

Tác phẩm bắt đầu với âm thanh tiếng trống thu không, báo hiệu mặt trời đã về chiều. Bức tranh thiên nhiên thật lãng mạn, trữ tình, đậm chất làng quê Việt Nam. Mặt trời lúc này trong mắt tác giả như hòn than sắp tàn, không còn vai trò soi sáng cho không gian. Buổi chiều im ắng với “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Phố huyện tĩnh lặng đến mức có thể nghe được muỗi, ếch nhái kêu từ xa.

Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ để thấy bức tranh thiên nhiên Việt Nam buổi chiều hoàng hôn đẹp đẽ. Tuy nhiên những âm thanh trên không làm thêm sự rộn ràng nơi làng quê nghèo, vẫn thật buồn tẻ. Âm thanh nhỏ bé làm nổi bật hơn không gian yên tĩnh, đơn điệu nơi đây. Bức tranh thiên nhiên lúc chiều dưới ngòi bút của Thạch Lam là sự lụi tàn, tan tác, buồn tẻ. Như vậy, dưới cảnh chiều tàn buồn man mác, con người nơi đây cũng chưa thấy vui vẻ hơn. Chiều tàn, chợ tan, không còn tiếng ồn ào, trò chuyện của bất cứ ai. Tiếng trống gõ rồi thôi, không gian im ắng đến đáng sợ, làm con người thêm não nề.

Hoạt động sinh hoạt về chiều của người dân phố huyện cũng không mấy náo nhiệt. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Sau một ngày hoạt động, mọi thứ đọng lại chỉ còn lại những rác rưởi. Ngày tàn, chợ cũng tàn, những kiếp người nơi đây thật tàn tạ. Họ không có lấy một việc làm kiếm nhiều tiền để thay đổi cuộc sống, các gian hàng bán đều ế ẩm. Chiều về, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng đến lạ thường, nhưng rất đỗi quen thuộc.

Tuy nhiên, chợ tàn là lúc các đứa bé chưa có khả năng lao động tự kiếm ăn. Chúng “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chỉ là một đứa trẻ, nhưng chúng phải học cách sinh tồn, kiếm ăn, lượm bất cứ gì sử dụng được.

Thông qua việc Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ, chúng ta thấy rõ hoàn cảnh bi đát của người dân. Khi phố huyện bị bao trùm hoàn toàn bởi bóng tối. Đầu tiên là Liên, nhân vật là một cô gái mới lớn. Cô ý thức được cuộc sống hiện tại của mình, đặc biệt nhạy cảm với mọi thứ xung quanh. Trong khoảnh khắc ngày tàn, cô cảm giác buồn man mác. Liên gắn bó với quê hương từ nhỏ, đã quen với mùi đất, hương vị nơi đây. Khi bóng đêm bao phủ, liên nhanh tay “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại, trong lúc An đi tìm then để cài cửa cho chắc chắn”. Tiếp theo, cô tổng kết doanh thu sau một ngày bán hàng. An là em gái của Liên, luôn đồng hành, hỗ trợ chị mọi việc trong ngày.

Hình ảnh chị Tí “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch”. Chị làm mọi việc để trang trải lo cho con, gia đình. Bác Xẩm hành nghề ca hát, hy vọng người qua đường cho chác chút đỉnh. Tuy nhiên, nơi đây con người quá nghèo nàn, để có tư tưởng thưởng thức âm nhạc. Tiếp theo là bác Xiêu với gánh phở đầy, nhưng đối với phố huyện đây là “là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền”. Một tô phở cũng là quá xa xỉ, họ không đủ khả năng kinh tế để ăn, cái nghèo thật xơ xác.

Tiếp đến là cụ Thi, đây là nhân vật để lại ấn tượng với người đọc sâu sắc. Cụ suốt ngày uống rượu và chìm trong cơn say, bước chân đi không vững. Đây cũng là cách mà cụ chọn để làm cho cuộc sống đặc biệt, bớt nhàm chán. Người dân nơi đây vẫn hoạt động sôi nổi cả ban ngày lẫn ban đêm để sống tốt mỗi ngày, mặc dù rất khắc nghiệt. Họ chưa tìm ra một lối đi mới, thay đổi cuộc sống. Cuộc sống của người dân phố huyện hiện tại là chuỗi ngày lặp lại. Tuy nhiên, họ luôn có ước mơ, hy vọng, cố gắng để mong có tia hy vọng.

Chỉ khi Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ mới thấy được rõ cảm xúc của Liên và An khi đợi tàu. Đoàn tàu đi qua phố huyện mỗi đêm khuya muộn là chi tiết đắt giá nhất tác phẩm Hai Đứa Trẻ. Tuy nhiên, đoàn tàu chỉ đi ngang không hề dừng lại, không ban phát một thứ gì về mặt vật chất. Nhưng lại mang ý nghĩa đặc biệt cho tầm hồn hai đứa trẻ Liên và An. Ban đầu, Liên và An đợi tàu vì mẹ dặn, để mục đích bán hàng. Tuy nhiên, lý do chính để chị em Liên luôn háo hức, mong chờ tàu đến là vì mang lại cho chúng những thứ mà phố huyện không hề có.

Liên đợi tàu cả thanh xuân, tàu đến báo hiệu cô rất rõ. “Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Liên đánh thức em”. Tàu chỉ đến và “vụt qua” trong thoáng chốc, nên cần phải tập trung nhìn. Liên gọi em dậy để kịp xem khoảnh khắc quý báu khi tàu đến.

Tàu đến, âm thanh từ còi, người trên tàu cười cười nói nói, tiếng ma sát với đường ray, ánh sáng từ tác toa tỏa ra. Một sự vui vẻ, náo loạn chỉ có đoàn tàu mới có, khác hoàn toàn với không gian lặng lẽ nơi phố huyện. Ánh sáng, tiếng ồn chỉ đến và đi trong chốc lát, nhưng lại được chờ đợi suốt một ngày dài. Tàu qua, Liên và An vẫn lưu luyến, chăm chút đến khi mất hút đằng sau rặng tre. Lúc này bỗng tâm trạng Liên trĩu nặng, buồn lặng lẽ. Đoàn tàu là hình ảnh đại diện cho ước mơ đổi đời, tham vọng thay đổi cuộc sống con người phố huyện nghèo.

Qua phân tích Hai đứa trẻ để thấy được bức tranh phố huyện nghèo. Tác giả đi vào sâu tâm lí nhân vật, từng chi tiết một, làm nổi bật lên nét riêng mỗi người. Qua tác phẩm, chúng ta thấy con người cần có ước mơ, động lực sống để tốt hơn mỗi ngày.

Đã mấy mươi năm trôi qua, người đọc vẫn không quên một dáng hình khiêm nhường, từ tốn, rất mực đôn hậu bước những bước thật nhẹ vào làng văn hiện đại Việt Nam, mang theo những trang văn nồng nàn hồn thơ. Đúng như Nguyễn Tuân nói, “sáng tác của Thạch Lam đem lại một cái gì đó nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ ở “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” lại một lần nữa dắt ta vào thế giới trẻ thơ với những cảm xúc êm nhẹ, buồn thương.

Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được thấm cảm bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi phố huyện qua cái nhìn tinh nhạy của cô bé Liên nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên gói gọn trong hay từ “êm ả” và “đượm buồn”. Có âm thanh của tiếng trống thu không đánh lên từng hồi xa vọng, âm thanh của tiếng ếch kêu rên gợi tĩnh lặng một miền quê, âm thanh của tiếng muỗi vo ve đậm tô sự nghèo nàn. Không gian mở ra bởi màu “đỏ rực” của phương Tây, màu “ánh hồng” của mây trời, màu “đen sẫm” của tre làng. Có chút thanh bình, êm ả, nhưng cũng không ít thê lương, ảm buồn, nó đưa ta vào một miền không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê nửa tỉnh, với những xúc cảm giăng mắc nhẹ nhàng.

Nơi phố huyện được nới rộng ra theo không gian của một phiên chợ tàn: “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không còn là “lao xao chợ cá làng ngư phủ”, phiên chợ buổi vãn chiều thưa thoáng người, vắng sự náo nhiệt, tô đậm thêm sự lụi tàn.

Hiện lên trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn là những kiếp người tàn. Không phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng.

Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Đó là những đứa trẻ nhà nghèo “cúi lom khom” nhặt nhạnh những thanh tre thanh nứa còn sót lại trên nền chợ, là mẹ con chị Tí với quán hàng bán chẳng được bao nhưng đêm nào cũng dọn, là bà cụ Thi với tiếng cười ghê rợn đi lần vào trong bóng tối, là bác Siêu với gánh phở ế ít người vào ăn, là gia đình bác xẩm với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm. Họ đều là những phận người nhỏ bé, sống lê lết từng ngày trong sự tù đọng quẩn quanh trên cái “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người vô danh ấy, Thạch Lam bày tỏ một mối quan hoài sâu sắc về cuộc sống của hai đứa trẻ. Giữa lứa tuổi mà đáng lẽ thơ ngây còn chưa hết, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em trông coi hàng giúp mẹ ở một gian hàng nhỏ thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Thức hàng cũng chỉ là vài quả sơn đen hay mấy bánh xà phòng. Cơ cực đã đành, nhưng điều làm ta xa xót hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường đang dần ngưng trệ. Chúng ngày ngày phải giam mình trong không gian u tối của phố huyện, tự cầm cố tuổi xuân và sức trẻ, và có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.

Nhưng vốn là người “yêu mến và trang trọng trước sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ muốn dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dẫu hiện thực ấy có chân thật đến đâu. Cố tìm mà hiểu chất ngọc sáng ẩn tàng nơi mỗi con người, khơi sâu “cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”, đó mới là điều Thạch Lam luôn muốn làm. Có người nói, Thạch Lam sinh ra là để hóa giải hai khuynh hướng sáng tác, có lẽ điều ấy thể hiện rõ nhất là ở những vẻ đẹp trong tâm hồn cô bé Liên được nhà văn viết bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa một phố huyện nghèo nàn xơ xác vẫn sáng lên những xúc cảm tinh nhạy của một cô bé biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều buông xuống mà lòng tự thốt lên: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”, chị thấy ở đó sự yên bình, và thấy cả lòng “buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nghe hương ẩm từ nền chợ bốc lên mà tưởng như đó là “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống lụi tàn, có mấy ai cảm được từ “một đêm mùa hạ êm như nhung” những gợn gió thoảng qua, thổi mát tâm hồn, mấy ai để tâm đến hoa bàng rụng xuống vai khe khẽ từng loạt một? Vậy mà những chứng tích của một tâm hồn mới lớn đã gọi về hết thảy những cảm xúc ấy: vừa rung động trước cái đẹp nhẹ nhàng, vừa buồn thoáng qua trước yên bình tĩnh lặng.

Không chỉ có một tâm hồn tinh nhạy, ở Liên còn có một niềm trắc ẩn sâu sắc, một mối đồng cảm nồng hậu với những kiếp người nhỏ bé quanh mình. Cuộc sống chẳng khá hơn họ, nhưng không vì thế mà Liên khép lại lòng thương đối với những đứa trẻ nghèo, hay bớt đi lời quan tâm với mẹ con chị Tí. Chị cũng chẳng ngại rót đầy cốc rượu cho bà cụ Thi, chẳng thờ ơ với gánh phở bác Siêu, gia đình bác xẩm. Sự động lòng và niềm bao dung đối với những người xung quanh phải chăng là lòng đồng cảm yêu thương mà Thạch Lam đã gửi gắm gián tiếp qua nhân vật của mình?

Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng luôn thường trực mà chúng tự nhiên lên ngay trong cuộc sống bế tắc của mình. Sinh thời, Thạch Lam từng tâm niệm: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ.” Hai đứa trẻ đã tự tìm cho mình niềm vui ở những lần chúng ngược dòng tâm tưởng, trở về quá khứ, miên man trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội nơi chúng từng được vui chơi, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hay những lần chúng ngước lên bầu trời đầy sao, tìm kiếm dòng sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông, cũng chính là lúc chúng để cho lòng mình lặng theo mơ tưởng. Nhưng có lẽ khao khát vẹn tròn nhất, ước mơ đủ đầy nhất, hai đứa trẻ gửi cả vào đoàn tàu. Không chỉ hai chị em Liên mà “từng ấy người trong bóng tối trông đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn sáng mãnh liệt nhất.

Đoàn tàu hoạt động cuối cùng của một ngày trong con mắt Liên và những người dân nơi phố huyện lại chính là động lực cho họ cố bám bíu vào cuộc sống này. Đoàn tàu xuất hiện bắt đầu bằng tiếng reo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đoàn tàu mang theo ánh sáng rực rỡ, mang theo âm thanh náo nhiệt, chứ không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như ngọn đèn của chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu. Chị em Liên cố thức chờ tàu không phải vì để bán được dăm ba món hàng, mà để được chìm đắm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội ấy từng đựng đầy những kỉ niệm thân thương về một thời gia đình còn khấm khá, Hà Nội ấy trong tâm thức hai đứa trẻ là miền không gian đẹp vô tận và bạt ngàn niềm vui.

Vì lẽ đó mà đoàn tàu vừa như một tia hồi quang đưa hai chị em ngược dòng về quá khứ, vừa như một tia vọng quang thắp sáng cả tương lai. Nhưng nhìn ở một góc nào, phải chăng chính đoàn tàu lại càng tô đậm cuộc sống bế tắc của người nông dân, khi mà niềm vui lớn nhất trong ngày của họ chỉ là chờ tàu, chẳng thể làm gì hơn để vượt thoát khỏi không khí tù đọng cứ ôm trùm ấy. Qua đây, nhà văn muốn gửi một thông điệp: Cần phải thay đổi xã hội để cho những con người vô danh kia không phải sống vô nghĩa.

Nhắc đến Thạch Lam là nhắc đến một nhà văn lớn của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Nhà văn Nguyễn Tuân khi nhận xét về Thạch Lam từng viết: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn từ những chân cảm đối với con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là nhà văn luôn quý mến cuộc sống, trân trọng sự sống của mọi người xung quanh”. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chính là minh chứng tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.

“Hai đứa trẻ” được rút trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938). Nhân vật chính của tác phẩm là hai chị em Liên và An. Do gia đình xảy ra biến cố, hai đứa trẻ theo mẹ về quê ngoại ở một phố huyện nghèo. Ngày ngày hai chị em Liên và An trông coi căn hàng xén nho nhỏ với vài ba bao thuốc, dăm bánh xà phòng… và chờ đợi đoàn tàu đi ngang phố huyện. Qua con mắt ngây thơ của Liên, cuộc sống nơi phố huyện hiện lên chân thực, sống động. Đó là mảng màu u tối trong không gian chật hẹp, tù túng với những con người chậm chạp, vô hồn và nghèo đói. Truyện ngắn thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp sống nghèo khổ, chìm khuất trong mòn mỏi, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện trước cách mạng và sự trân trọng với những mong ước nhỏ bé, bình dị mà tha thiết của họ.

Như đã nói, làm nên truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn. Mở đầu câu chuyện, đập vào giác quan người đọc là khung cảnh chiều tàn, ảm đạm và u tối. Thời gian được khắc họa trong tác phẩm ngắn ngủi, mọi sự việc diễn ra được kể từ lúc chiều tối cho đến đêm. Cảnh chiều tàn, trước hết qua con mắt của người nghệ sĩ, vẫn mang vẻ đẹp vô cùng yên ả, bình dị và thơ mộng. “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Thế nhưng, bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn chứa sau nó là cả một nỗi buồn mà người vẽ đã cố ý che đi bằng những mảng màu rực rỡ. Có người đã nhận xét, văn Thạch Lam vừa chất chứa hiện thực vừa giàu tính lãng mạn. Điều đó hoàn toàn đứng khi đặt vào truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Bởi khuất lấp sau nhiều tầng lớp ngôn từ, điều Thạch Lam gửi gắm đó là cuộc sống mòn mỏi, tăm tối vây hãm con người.

Nơi chị em Liên ở là một phố huyện nghèo và thực chất nó là cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.” Chỉ cần nhìn vào những gì còn sót lại sau phiên chợ cũng đủ để thấy cuộc sống cư dân ở đây khổ cực như thế nào. Những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như để trao lại cho nhau những nỗi tẻ nhạt cuộc sống mưu sinh. Những đứa trẻ nhà nghèo đang lúi húi sinh nhai trên đống phế phẩm của phiên chợ quê nghèo. Chúng “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn cùng. Tất cả như đang cố sức để sống và hy vọng nhưng sự cố gắng thì đã quá sức còn hi vọng vốn quá mong manh.

Nổi bật trên nền cảnh tàn tạ, hắt hiu của phố huyện là hình ảnh những kiếp người tàn, quẩn quanh, tù túng không lối thoát. Đó là vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn bầu thê lương, trên manh chiếu rách, thằng con bò ra đất ngoài manh chiếu, nghịch nhặt rác bẩn. Đó là mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối đến lại dọn hàng nước ven đường “chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Đó là bác phở Siêu với gánh hàng vốn là thứ quà xa xỉ đối với người dân phố huyện, là bà cụ Thi điên nghiện rượu, là những đứa trẻ con nhà nghèo và chính cả hai chị em Liên… Thân phận tàn tạ đang héo mòn, con người hoà lẫn cùng bóng tối như những cái bóng vật vờ lay lắt, mong manh đang trôi theo thời gian. Cuộc sống ấy cứ đều đều, đơn điệu, lặp đi lặp lại buồn tẻ, nhàm chán đối với người dân phố huyện. Tất cả họ đang mong đợi một cái gì đó tươi mát thổi vào cuộc đời họ.

Nét vẽ âm thanh, ánh sáng, con người của bức tranh phố huyện tưởng chừng rời rạc, nhưng nó hoà quyện cộng hưởng trong hệ thống u buồn, trầm mặc, xót xa. Điểm thêm vào cuộc sống ấy là ngọn đèn dầu cùng bóng tối bao phủ, càng ngợi sự nghèo khổ lay lắt đến tội nghiệp.

Cảnh ngày tàn được miêu tả ảm đạm, tù túng với những kiếp người tàn. Và, sự tẻ nhạt, tăm tối như được nâng lên gấp nhiều lần khi Thạch Lam miêu tả cảnh phố huyện lúc đêm khuya. Trong tác phẩm có đến hơn hai mươi lần từ “tối” được lặp lại. “Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”, “đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giác ngột ngạt. Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trước cách mạng tháng Tám nói chung. Đó cũng là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.

Không chỉ là không gian, cảnh vật, cuộc sống của những cư dân nơi phố huyện cũng phủ đầy đêm tối. Họ hoạt động, mưu sinh trong bóng tối mịt mù. Tối đến, mẹ con chị Tí dọn hàng nước. Đêm về, bác phở Siêu xuất hiện. Trong bóng tối, gia đình bác hát Xẩm kiếm ăn. Khi bóng tối tràn ngập là lúc bà cụ Thi điên đến mua rượu uống rồi sau đó “đi lần vào đêm tối”. Còn Liên và An đêm nào cũng ngồi lặng ngắm phố huyện và chờ đoàn tàu. Cuộc sống lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ với những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ cùng mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”.

Trong bóng tối đen đặc ấy, hình ảnh ngọn đèn dầu được nhắc hơn mười lần như một chút hi vọng mong manh Thạch Lam muốn gieo vào lòng con người. Đó là “ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng. Ngọn đèn dầu, mặt khác cũng là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hạt sáng của ngọn đèn dầu hắt ra chỉ như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen càng bi đát, tối tăm.

Trong toàn bộ tác phẩm, nhân vật mà Thạch Lam chú ý nhiều nhất là nhân vật Liên. Mặc dù Liên chỉ là một cô bé mới lớn nhưng ở em có những suy nghĩ, cảm xúc chân thực, đẹp đẽ đáng trân trọng. Ở đây, trước cảnh tăm tối, tù túng nơi phố huyện, tâm trạng của Liên cũng trở nên buồn bã, tư lự. Liên nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội, “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Khi ấy “mẹ Liên nhiều tiền được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Đó là cuộc sống khác hẳn với cảnh sống tăm tối, tù túng nơi phố huyện. Tuy nhiên, với cuộc sống hiện tại, cảm nhận của Liên tuy buồn nhưng thân thuộc, gần gũi. Liên không ghét bỏ hay từ chối cuộc sống hiện tại. Liên và An lặng lẽ ngắm các vì sao, lặng lẽ quan sát những gì diễn ra ở phố huyện và xót xa cảm thông, chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo, tù đọng trong bóng tối của họ.

Một chút ánh sáng của những ngọn đèn có thể không đủ để xua đi cái tăm tối, ảm đạm, quẩn quanh của cuộc sống. Tuy nhiên, Thạch Lam không dập tắt hy vọng của những con người khốn khổ ấy. Ông mang đến cho họ niềm vui, hy vọng lớn lao hơn dù nó chỉ diễn ra trong chốc lát, đó là chuyến tàu đêm rực rỡ ánh đèn. Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên và những cư dân phố huyện. Nó mang đến một thế giới khác: ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách… và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện. Chuyến tàu ở Hà Nội về chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện. Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vì mục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì nhiều mục đích khác. Liên hi vọng được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống. Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức vui vẻ, đủ đầy mà chị em cô đã từng được sống. Chuyến tàu cũng giúp Liên nhìn thấy rõ hơn sự ngưng đọng tù túng của cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn của cuộc đời mình. Có thể nói, Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.

Trong tác phẩm, hình ảnh chuyến tàu đêm là một biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc. Nó là đại diện của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và sự rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện. Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn lay tỉnh những người đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là giá trị nhân bản của truyện ngắn này. Bên cạnh đó, chuyến tàu cũng là biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.

Để làm nên thành công của tác phẩm, bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc, không thể không kể đến tài hoa nghệ thuật của Thạch Lam. Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh, mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, người đọc hoàn toàn có thể nhận ra câu chuyện gần như không có cốt truyện, tất cả chỉ đơn giản là những mảnh cảm xúc, những chi tiết, sự việc nhỏ nhặt chắp nối với nhau qua suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật Liên. Bút pháp tương phản đối lập cũng được xem là một thành công của Thạch Lam trong quá trình kể chuyện. Đó là sự đối lập giữa bóng tối đậm đặc với ánh đèn dầu leo lét, là sự đối lập giữa cuộc sống quẩn quanh, ảm đạm của người dân phố huyện với cuộc sống ồn ã, sôi động trên chuyến tàu đêm. Với sự đối lập này, Thạch Lam hướng đến nhấn mạnh, tô đậm cuộc sống tăm tối, tù túng, vô vọng của những cư dân nơi phố huyện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra khả năng miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật từ bóng tối đến ánh sáng và tâm trạng của con người mà đặc biệt là nhân vật Liên. Đó có thể là buồn bã, cảm thông hay nuối tiếc… tất cả đều tinh tế và phù hợp với diễn biến câu chuyện. Ngoài ra, cũng có thể kể đến hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, tượng trưng và giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thỏ chất trữ tình sâu sắc. Tất cả đã góp phần làm nên chất văn của Thạch Lam, đặc sắc và đầy thu hút.

Hai đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm 1937 1938 khi mà xã hội Việt Nam ở vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của Thạch Lam, cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám ảnh lòng người. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình cảm của mình với những cảnh đời khác nhau.

Tác phẩm Hai đứa trẻ được bắt đầu bằng cảnh chiều tà trên phố huyện. Văn học xưa nay khi tả cảnh chiều thường có những hình ảnh chim về tổ, người đi xa nhớ nhà, nỗi buồn hoàng hôn… Ở Hai đứa trẻ ta không bắt gặp hình ảnh đó nhưng cảnh chiều vẫn thấm thía một nỗi buồn và trong cái buồn nhà văn vẫn phát hiện nét đẹp thi vị mang chút hoang sơ của làng quê “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn… Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”.

Cùng với cảnh chiều tà là chợ tàn với hàng loạt những hình ảnh phơi bày vẻ nghèo xơ xác ở chốn này: “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đấ chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Ngay sau cảnh chợ tàn là cảnh bóng tối bao phủ. Dưới con mắt của Liên thì giờ đây tất cả đã ngập đầy bóng tối. Thạch Lam miêu tả bóng tối thật kì diệu. Có đến 30 lần tác giả nhắc đến bóng tối. Bóng tối đến từ nhiều phía: từ đám mây sắp tàn, từ rặng tre đã đen kịt, từ tiếng muỗi vo ve trong góc nhà, tiếng ếch kêu ngoài đồng để rồi nó bao trùm lên đường phố và các ngõ hẻm: “Tối hết cả từ con đường khấp khểnh ra sông…, các ngõ hẻm vào làng thì càng tối đen hơn nữa”

Với cách miêu tả này người đọc sẽ cảm nhận bóng tối như một cái gì đó rất hãi hùng, như một sự hăm dọa. Nó luồn lách mọi nơi, nó thâm nhập vào cảnh vật. Nó trùm lên và đè nặng lên cuộc sống ngột ngạt ở phố huyện nghèo nàn này.

Trong chuyện cũng có những chi tiết nói về ánh sáng ấy vừa leo lét tù mù, yếu ớt không đủ sức xua đi bóng tối mà trái lại lại còn gây cảm giác bóng tối càng đậm đặc hơn. Cứ tối đến thì bóng những con người bắt đầu xuất hiện khiến người đọc liên tưởng đến những loài chim ăn đêm lặn lội. Mặt khác ta cũng nghĩ ngay đến cảnh đời tăm tối trong đêm đen của chủ nghĩa thực dân phong kiến.

Cách miêu tả với từng gương mặt cụ thể, mỗi người có một đời sống riêng: chị Tí cứ nhá nhem tối là xuất hiện. Sau một ngày mò cua bắt tép vất vả, mặc dù biết là chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào chị cũng dọn hàng. Hình ảnh ngọn đèn leo lét chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ở quán nước của chị lại khiến ta liên tưởng tới cuộc sống tù mù, leo lét

Khi bác phở Siêu xuất hiện với một chấm lửa nhỏ và lơ lửng trong đêm tối, chập chờn như ma trơi. Từ khi dọn hàng cho tới lúc về bác không bán được đồng nào. Bà cụ Thi điên từ trong bóng tối đi ra với tiếng cười khanh khách. Sau khi uống cạn cút rượu, tiếng cười của cụ lại chìm vào bóng tối. Ở nhân vật này ẩn chứa một sự tội nghiệp u uất đầy bí ẩn.

Nhưng cảnh ám ảnh nhất là hình ảnh vợ chồng bác Xẩm mà nhà văn đã ba lần nhắc đến họ. Họ xuất hiện với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm tối rồi với đứa con bò lê trên đất cát trong bóng tối và khi về đếm về khuya thì họ ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Sau khi miêu tả từng gương mặt tác giả khái quát lại “Chừng ấy con người trong bóng tối như mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Rõ ràng nhà văn đã thấu hiểu đồng cảm sâu sắc với những cảnh đời trong bóng tối và chính Thạch Lam cũng mong đợi được đổi đời.

Thạch Lam – một nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học văn lãng mạn. Tuy nhiên cái lãng mạn trong văn của ông nó rất lạ, độc đáo: xuất phát từ hiện thực, tinh tế, nhẹ nhàng và đi sâu vào lòng người. Đó là cái lãng mạn tích cực, lãng mạn đẹp. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút ra từ tập “Nắng trong vườn” là một minh chứng. Truyện viết xúc động về người nghèo, những em bé nhà nghèo ở một phố huyện nhỏ với lời văn nhẹ nhàng, tinh tế nói lên lòng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.

Truyện Hai đứa trẻ được tác giả miêu tả theo trình tự không gian và thời gian. Không gian đó là từ khi mặt trời bắt đầu lặn cảnh vật có màu sắc nhờ nhờ rồi chuyển sang đen sẫm, còn trình tự thời gian từ lúc chiều tà tới đêm. Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày thông qua tiếng trống thu không cùng hình ảnh : “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Đó là một buổi chiều êm ả, không gian tĩnh lặng tới mức có thể nghe được cả tiếng kêu của lũ ếch nhái từ ngoài đồng xa vọng lại theo làn gió thổi : “ Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ bay vào”. Khung cảnh phố huyện buổi chiều tà còn được miêu tả cụ thể, sinh động và gợi cảm dưới mắt của hai đứa trẻ. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu “ người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Qua hình ảnh cảnh chợ tàn đã phần nào phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Sau khi buổi họp chợ tàn, mọi người ra về và khi đó trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Đồng thời cảnh chiều tà nơi phố huyện còn được miêu tả qua khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Thông qua tất cả các âm thanh và hình ảnh trên đã vẽ lên một bức tranh phố huyện nghèo, buồn nhưng lãng mạn.

Trời chuyển sang tối dần : “Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.”. Ánh sáng của mặt trời yếu dần rồi mất hẳn, những loài động vật kiếm ăn đêm xuất hiện đó là những con muỗi bay và phát ra tiếng vo ve. Tất cả khung cảnh đều dần bị bao trùm bởi màu đen khi bóng tối kéo tới. Nó khiến cho cảnh phố huyện trở nên buồn, u tối. Cả con phố đều ngập chìm trong màu đen, ánh sáng chỉ xuất hiện ở một vài nơi nhưng chúng yếu ớt và le lói chiếu sáng một vùng hẹp như ngọn đèn dầu từ trong quán của chị em Liên, ánh sáng từ bếp lửa di động của bác phở Siêu và ngọn đèn Hoa Kỳ của mẹ con chị Tí soi ra từ quán nước hay ánh sáng tỏa ra từ các toa tàu khi có tàu đi qua phố huyện nhưng hình như trên đó là một thế giới khác. Cả một không gian rộng lớn nơi phố huyện chỉ có vài điểm sáng nhỏ, yếu gợi lên một bức tranh của một phố huyện nghèo và nhuốm màu của nỗi buồn.

Bức tranh phố huyện còn được miêu tả sinh động với cuộc sống thường nhật của người dân phố huyện- những con người sống cuộc sống nghèo khổ, vất vả, lam lũ trong cuộc mưu sinh như : những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, vợ chồng bác Xẩm, bà cụ Thi điên và nhân vật chính của truyện ngắn là hai chị em Liên và An. Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Trước hết, là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ chúng : “tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì có thể dùng được”. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.

Advertisement

Tiếp đến là mẹ con chị Tí, ngày nào cũng vậy cứ đến giờ này mẹ con chị lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này” với những mặt hàng rất mộc mạc, bình dân như nước chè tươi, thuốc lào bởi vậy khách hàng của quán chị cũng chỉ là phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục mà thôi.

Cuộc sống vất vả như vậy nhưng ít nhất mẹ con chị cũng có chỗ bán cố định với đồ nghề mặc dù chỉ “chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén” nhưng so với vợ chồng bác Xẩm thì vẫn có vẻ may mắn hơn. Vợ chồng bác Xẩm mù lòa cùng đứa con đang bò lê ra cát đang vất vả mưu sinh với gia tài chỉ có manh chiếu rách và chiếc thau thủng. Cuộc sống hàng ngày của vợ chồng bác và đứa con nhỏ phụ thuộc vào lòng tốt, sự bố thí của người khác. Họ cho gì thì ăn nấy. Vì vậy, nhiều hôm cả ngày không xin được gì cũng chẳng có ai thương xót thì bao nhiêu miệng ăn nhà bác đều phải nhịn đói.

Ngoài các nhân vật như mẹ con chị Tí, vợ chồng bác Xẩm và một vài đứa trẻ bới rác Thạch Lam còn phác họa một nhân vật nữa là bà cụ Thi. Cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu , khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và “tiếng cười khanh khách nhỏ dần”. Một nhân vật khác cũng được nhắc đến khi nói về cuộc sống của người dân phố huyện đó chính là bác phở Siêu. Hình ảnh của bác xuất hiện với gánh hàng kẽo kẹt, một bên là hàng một bên là cái bếp than hồng.

Thạch Lam đã thể hiện sự thương xót, nhân hậu cùng một trái tim đầy tình người đối với hai đứa trẻ, đó là nhân vật Liên và bé An. Hai chị em Liên chuyển từ Hà Nội về sống ở phố huyện này kể từ bố Liên bị mất việc. Mẹ Liên đã thuê một quán nhỏ gần ga để bán hàng xén và giao công việc này cho hai chị em. Ngày nào cũng vậy, theo lời mẹ Liên thường đóng cửa muộn bởi: “Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ”. Chính vì vậy, hai chị em ngày nào đến tầm tối lại cùng nhau ra ngồi trên chõng đợi tàu chạy qua. Khi nhìn vào ánh sáng của tàu khiến hai chị em nhớ lại khoảng thời gian sống trên Hà Nội, đó là những tháng ngày cuộc sống đầy đủ hạnh phúc của gia đình Liên. Liên và An đều là những cô bé còn nhỏ nhưng đã phải sống trong cảnh phố huyện nghèo cùng với những con người vất vả, lam lũ đang từng ngày từng giờ vật lộn với cuộc mưu sinh là một bức tranh hiện thực của cuộc sống nơi phố huyện. Nhưng với trái tim nhân hậu, giàu tình thương của mình Thạch Lam đã thổi vào bức tranh ấy chất lãng mạn, niềm hy vọng vào cuộc sống thông qua nhân vật Liên và An. Với cách miêu tả tâm hồn hồn nhiên trong sáng và mơ mộng của hai chị em Liên khi chờ tàu về. Chúng luôn háo hức mỗi khi được ngồi ở chõng chờ đoàn tàu đi qua. Trong suy nghĩ, tưởng tượng của hai chị em cuộc sống trên tàu chắc hẳn rất vui, rất hạnh phúc và nó như một thế giới khác, khác hẳn so với cuộc sống mà chị em Liên và người dân phố huyện đang sống một cuộc sống tù túng, tẻ nhạt. Chúng mơ ước, khao khát một ngày sẽ được lên đoàn tàu và đến nơi hạnh phúc- nơi chúng có thể được uống những thứ nước xanh đỏ mơ ước. Chính vì vậy, hai chị em rất háo hức chờ tàu, rồi ngắm, nhìn theo cho tới khi tàu đi khuất xa hẳn thì mới chịu dọn hàng. Đó đã là lúc trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối nhưng luôn hi vọng, ước mơ về một cuộc sống tươi sáng, đẹp đẽ.

Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả.

Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong chùm truyện ngắn đặc sắc của ông, những hình ảnh chi tiết trong truyện giống như một dòng sông cuốn chúng ta vào đó, và cảm nhận được những gì đang xảy ra với câu chuyện của tác giả.mọi thứ diễn ra thật nhẹ nhàng mà cũng mãnh liệt xoáy sâu vào suy nghĩ và cách cảm nhận tác phẩm của từng độc giả.

Nhà văn là những người nói hộ cho hiện thực cũng có khi họ thi vị hóa cho những gì đang xảy ra xung quanh họ, từ những điều đơn giản nhất cho tới những thứ mà con người ta hay nghĩ đến,văn thơ đóng một vai trò không thể thiếu. Với ngòi bút tài hoa giàu lòng trắc ẩn, tác phẩm Hai đứa trẻ ra đời mang ý nghĩa nhân văn.

Những con người xuất hiện trong tác phẩm mang một cuộc sống cơ cực nghèo khổ, cái nghèo bám lấy họ và họ không có lối thoát. Họ mong muốn có một cuộc sống sung túc , tuy không giàu có những làm sao cho cuộc sống mưu sinh đỡ vất vả. Qua đây, Thạch Lam cho ta nhìn nhận những sự khó khăn vất vả mà những con người nơi đây đang phải chống chịu. Những chi tiết trong tác phẩm tuy là miêu tả về hiện thực nhưng lại không thiếu những chi tiết sống động, lãng mạn.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh chiều tà,hình ảnh xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm, là chính khoảnh khắc mà khiến con người ta nhận ra nỗi buồn nhiều nhất. Những âm thanh quen thuộc, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, và khung cảnh xung quanh tác động đến tâm trạng của mỗi người.Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn,bầu trời gồm những áng mây hồng, như được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác ưu buồn và cô đơn.

Thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận ra đây là một buổi chiều buồn bã và chán nản. Thời gian bắt đầu chuyển động dần tới đêm, những hình ảnh chiều tàn và hình ảnh chợ chiều tàn hiện ra càng thể hiện sự nghèo khổ và hiu hắt ở nơi đây.

Những con người cần mẫn , luôn mong muốn cuộc sống của họ đầy đủ hơn,cuộc sống thật vất vả và đầy khổ cực bươn chải. Hình ảnh những con người xuất hiện trong “ Hai đứa trẻ” tuy xuất hiện không nhiều nhưng mang một nét riêng biệt,nổi bật lên đó là hình ảnh của cô gái Liên, dù còn nhỏ nhưng tâm hồn và suy nghĩ của cô thực sự như là một thiếu nữ.

Cuộc sống ở đây chìm ngập trong bóng tối và tẻ nhạt, họ sống cùng sự buồn chán và tuyệt vọng,đối với họ, họ đang sống cuộc sống tạm ,một cuộc sống tĩnh lặng và không biết ngày mai sẽ như thế nào. Sau khi chợ chiều tàn, mọi người đều đi về và tiếng ồn ào cũng mất, như dấu hiệu của sự tĩnh lặng của đêm tối bắt đầu. Những rác rưởi, vỏ bưởi và hình ảnh những đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ còn sót lại chỉ là những thanh tre thanh nứa…

Đêm bắt đầu buông xuống, cuộc sống của một đêm ở phố huyện nghèo lại bắt đầu.Nhân vật Liên trong tác phẩm sửa soạn lại hàng trên chiếc chõng tre,mẹ con chị tí, sáng mò cua bắt ốc, tối lại mở thêm hàng nước để kiếm thêm thu nhập. Quán hàng phở cũng bắt đầu sửa soạn còn hai cha con nhà bác Xẩm thì chưa hát chưa kéo đàn vì vẫn chưa có khách nghe.

Đứa con thì nhoài ra nghịch đất cát ở bên ngoài. Mọi thứ thật đơn điệu, không có một chút niềm vui của họ, chắc có lẽ họ nghĩ và hy vọng rằng, hàng quán đắt khách kiếm thêm được tiền quả là một niềm vui một niềm hạnh phúc và mang lại một cuộc sống no đủ hơn. Hình ảnh cụ Thi điên đắm chìm vào men rượu, bước đi lảo đảo, cụ sống một cuộc sống k còn tự chủ của bản thân, có hay chăng cụ tìm đến rượu để quên lãng đi tất cả đau khổ và chìm vào đó để tìm thú vui của mình.

Những con người nơi phố Huyện này, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng với chị em Liên thì có lẽ vẫn chưa quen với sự tẻ nhạt buồn chán nơi đây,bởi hoàn cảnh đưa đẩy, bố của chị em Liên thất nghiệp phải về phố huyện để mưu sinh. Hai chị em phải nhận thức ra được điều này và làm quen dần với cuộc sống nơi đây.

Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cả những kiếp người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào môi buổi tối. Không gì khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu. Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khu phố huyện có một chút thay đổi ngoài những ánh sáng tẻ nhạt và không đủ sáng như thường ngày.

Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng ngày ở Hà Nội, hai chị em được dẫn đi chơi,được sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, ngươi đi qua lại tấp nập và được uống với những cốc nước xanh đỏ.

Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghĩa hơn, muốn những gì mà họ khát khao và cháy bỏng bấy lai nay điều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà chờ đợi mỏi mòn.

Những ước mơ của họ chỉ chợt lóe lên khi đoàn tàu chạy qua, cũng có khi có có ước mơ nhưng chỉ khi đoàn tàu chạy qua họ mới cảm thấy những mong muốn của họ mới trở nên lấp lánh và có hi vọng hơn. Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Những kiếp người nơi phố Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đo thực ra chỉ là sự mong manh và huyền ảo.

Qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Tài năng của Thạch Lam thông qua đó mà được bộc lộ,đặc biệt là sự tinh tế tròn tả cảnh và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật khiến truyện đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất.

Trào lưu văn học lãng mạn là một trong số những trào lưu văn học lớn trong giai đoạn 1930 – 1945 với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng, Thạch Lam là một trong số những gương mặt tác giả tiêu biểu cho trào lưu ấy. Với những trang viết nhẹ nhàng, truyện không có cốt truyện, đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, những truyện ngắn của Thạch Lam luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trích trong tập “Nắng trong vườn” là sáng tác xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông.

Toàn bộ tác phẩm được đặt dưới con mắt của nhân vật Liên – một thiếu nữ mới lớn. Chính điều đó không chỉ làm cho câu chuyện mang tính khách quan mà hơn thế nữa còn làm cho bức tranh cảnh vật thấm đẫm cảm xúc của nhân vật, trở nên sinh động và mang màu sắc mới. Thêm vào đó, tác phẩm được đặt trong bối cảnh không gian của một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và đặc biệt là khoảng thời gian từ chiều tối đến đêm muộn – một khoảng thời gian có ý nghĩa đặc biệt trong văn học. Để rồi, từ việc lựa chọn điểm nhìn, không gian và thời gian ấy đã đưa đến cho người đọc bức tranh sinh động về cảnh vật và con người phố huyện trong những khoảng thời gian khác nhau.

Mở đầu tác phẩm chính là bức tranh phố huyện lúc chiều tàn. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn được tác giả miêu tả trước hơn hết ở bức tranh cảnh vật với đầy đủ cả âm thanh, màu sắc và đường nét. Âm thanh đầu tiên được tác giả gợi lên ở câu văn mở đầu tác phẩm đó chính là “tiếng trống thu không trên cái chòi canh của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra như để gọi buổi chiều về”. Câu văn dài, được tách thành nhiều vế như gợi lên nhịp bước của thời gian, tiếng trống thu buổi chiều ấy như đang điểm nhịp từng bước, từng bước một để gọi chiều tàn. Cùng với đó, tác giả còn miêu tả tiếng ếch nhái và tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve – đó đều là những âm thanh quen thuộc, bình dị của làng quê Việt Nam. Cùng với đó, bức tranh cảnh vật còn hiện lên với sắc màu “đỏ rực như lửa cháy” nơi phương Tây và cả sắc “ánh hồng của những hòn than sắp tàn.

Như vậy, có thể thấy, tác giả đã gợi lên một bức tranh cảnh vật, bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện vừa thơ mộng, gần gũi, sinh động nhưng đâu đó nó vẫn ánh lên cái xơ xác, vắng lặng. Không chỉ dừng lại ở tái hiện bức tranh cảnh vật, nhà văn Thạch Lam còn miêu tả một cách sinh động về cuộc sống của những người dân nơi đây thông qua cảnh chợ tàn và hình ảnh con người. Chợ đã tàn, người cũng đã về hết và tiếng ồn ào giờ đây cũng đã thưa thớt dần, đâu đó trên nền đất chỉ còn lại rác rưởi, những vỏ thị, lá nhãn, lá mía,… Tất cả những chi tiết ấy đã khái quát rõ nét khung cảnh chợ tàn nơi phố huyện và cũng trên cái nền của thiên nhiên, của chợ tàn, hình ảnh con người dần xuất hiện. Đó là hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo canh chợ đang “cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đó là hình ảnh của mẹ con chị Tí với cuộc sống tẻ nhạt, ngày nào cũng sáng mò cua bắt tép, chiều đến lại dọn gánh hàng nước từ chập tối cho tới đêm dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Đó là bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách. Và có lẽ nổi bật lên trên đó chính là hình ảnh của chị em Liên và An. Vì bố mất việc, cả gia đình Liên phải chuyển về đây và được mẹ giao cho trông coi một gánh hàng nước nhỏ.

Hình ảnh của Liên chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng. Liên giống như một người chủ gia đình thực sự, một cô gái đảm đang, tháo vát và có thể lo toan tất cả mọi việc. Bằng bút pháp tả thực, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi phố huyện nghèo – một cuộc sống vất vả, cơ cực, lam lũ là tẻ nhạt. Để rồi, trước khung cảnh ấy, một cô gái có tâm hồn nhạy cảm như Liên lại hiện về bao nỗi niềm tâm trạng. Đầu tiên, Liên thấy buồn biết bao trước khoảnh khắc của ngày tàn – “Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác”. Thêm vào đó, khi chứng kiến hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo cạnh chợ, Liên thấy “động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”. Với những nét tâm trạng đó có thể thấy Liên là cô gái tinh tế, nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn. Đồng thời, qua nhân vật Liên cũng giúp chúng ta hiểu thêm về tấm lòng xót thương của nhà văn Thạch Lam dành cho những con người nơi phố huyện nghèo.

Không chỉ miêu tả thành công bức tranh phố huyện lúc chiều tàn, bức tranh phố huyện lúc đêm khuya cũng được nhà văn Thạch Lam miêu tả với nhiều chi tiết độc đáo. Bức tranh cảnh vật nơi phố huyện lúc đêm tối để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc trước hơn hết ở bóng tối dày đặc, bao phủ khắp mọi nơi. Nhà văn Thạch Lam đã sử dụng hàng loạt các chi tiết để miêu tả bóng tối dày đặc ấy, “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”. Có thể thấy, bóng tối đã xâm nhập và bủa vây lấy cuộc sống của những con người nơi phố huyện. Đối lập với hình ảnh bóng tối đó chính là hình ảnh ánh sáng. Nếu bóng tối được miêu tả dày đặc, mịt mù thì ánh sáng lại hoàn toàn ngược lại. Đó chỉ là thứ ánh sáng yếu ớt, nhỏ nhoi, chỉ là những “hột sáng”, “vệt sáng”, “một chấm lửa vàng đi trong đêm tối”… Có thể thấy, nhà văn Thạch Lam đã khéo léo làm bật nổi sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối – một thủ pháp quen thuộc của văn học lãng mạn. Nhưng không chỉ dừng lại ở ý nghĩa tả thực, hình ảnh bóng tối và ánh sáng còn mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống leo léo, tàn lụi của những số phận nghèo khổ trong đêm tối của xã hội. Không chỉ dừng lại ở khắc họa sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, ngòi bút của Thạch Lam còn đi sâu tái hiện cuộc sống của những con người trong đêm tối mịt mờ ấy. Một gia đình bác phở Siêu với “món ăn xa xỉ”, hôm nào cũng ế khách. Một gia đình bác Xẩm với manh chiếu, thau sắt trắng và tiếng đàn trong đêm tối tĩnh lặng. Một chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm và cả chị em Liên ngày nào cũng trông cửa hàng cho mẹ. Cuộc sống của những con người nơi đây ngày nào cũng thế, cũng quẩn quanh với bấy nhiêu công việc, tù túng, không lối thoát. Và rồi, trước khung cảnh của phố huyện lúc đêm khuya, Liên lại nhớ Hà Nội – nhớ quá khứ vui vẻ và sung túc “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội…Hà Nội nhiều đèn quá!” và lại khao khát, đón đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội đi qua.

Tóm lại, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam với giọng văn nhẹ nhàng, truyện không có cốt truyện cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo đã thể hiện một cách rõ nét niềm xót thương, cảm thông của tác giả với cuộc đời, số phận của những con người nơi phố huyện. Đồng thời, qua đó ông cũng thể hiện sự trân trọng ước muốn được đổi thay của họ.

Trong nhóm tự lực văn đoàn Thạch Lam sống một cuộc đời ngắn ngủi nhất, viết ít nhất nhưng tác phẩm của ông sống mãi với thời gian. Truyện ngắn Thạch Lam dù trải qua bao khắc nghiệt vẫn giữ nguyên giá trị và được nhiều bạn đọc tìm đến với một niềm say mê trân trọng. Hai đứa trẻ in trong tập nắng trong vườn(1938) sức hấp dẫn của truyện không chỉ ở nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, ở tấm lòng nhân hậu mênh mang ở giọng văn lắng đọng nhẹ nhàng mà đặc biệt còn ở ngòi bút khắc họa bức tranh phố huyện nghèo và tâm trạng của Liên.

Lấy ngày tàn làm nền và bóng tối làm gam màu chủ đạo, Thạch Lam đã khắc họa một bức tranh phố huyện nghèo. Câu chuyện được mở ra trong giờ khắc ngày tàn. Tiếng trống thu không điểm từng tiếng một trên cái chòi huyện nghèo, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve, mọi âm thanh dường như có nhỏ lại lịm dần đi thưa thớt. Âm thanh ấy hay chính là dấu vết còn lại của ngày tàn, nó gọi thời gian gọi buổi chiều bằng những nhịp chậm rãi. Phải chăng đó còn là nhịp đời trôi tù đọng của phố huyện nơi đây.

Điểm nhìn cho âm thanh xa vắng là phương tây đỏ rực như lửa cháy, áng mây hồng và những dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời. Hình ảnh ấy như báo trước một sự rơi rụng của ngày tàn sắp đến. Những câu văn êm dịu với nhịp điệu chậm rãi vừa giàu hình ảnh nhạc điệu vừa uyển chuyển tinh tế đã khắc họa một bức hạ đồng quê quen thuộc nhưng phảng phất một nỗi buồn bâng khuâng, man mác. Mỗi câu văn như một nét đơn sơ, không cầu kì kiểu cách đã gợi dậy được cái hồn của cảnh vật, cái thần thái của thiên nhiên.

Không chỉ đặt nhân vật vào những khoảng thời gian nhất định Thạch Lam còn đặt nhân vật của mình vào những không gian nhất định. Đó là không gian của một phiên chợ tàn ở một miền đời bị lãng quên. Chỉ bằng một vài nét phác họa chợ chiều hiện lên thật tàn tạ thê lương: nào là rác rưởi vỏ bưởi vỏ thị. Những người gánh hàng rong còn nán lại nói chuyện gì đó xong họ mới về. Trên mặt đất những tia sáng làm cho những hạt cát lấp lánh, hòn đá nào bên sáng bên tối làm nên một bức tranh tả cảnh tàn tạ của phiên chợ chiều.

Tất cả đều đi vao bóng tối đến nhường lại cho khu phố một cảm giác lãnh đạm hơn bao giờ hết. Thế rồi trên cái nền ấy những đứa trẻ con hiện lên thật đáng thương. Đó là mấy đứa trẻ nghèo đi nhặt nhạnh những thứ còn dùng được của buổi chợ để lại. chúng nhặt những thanh nứa thanh tre.

Liên thương xót nhưng hoàn cảnh của chị Liên cũng chẳng hơn chúng bao nhiêu. Trước cảnh tượng ấy không hiểu sao “ Liên thấy lòng mình man mác buồn”. Có lẽ cuộc sống đã biến cô từ một đứa trẻ vô tư thành một đứa trẻ suy tư. Chị em Liên ngồi kê chõng ra ngoài mà ngắm khu phố chuẩn bị lên đèn.

Có thể nói khung cảnh khu phố hiện lên vừa có cái gì đó thi vị, nên thơ đó là cái mộc mạc của khu phố huyện nhưng cũng tiêu điều và vắng vẻ. Nó gợi lên một miền đời trôi tù đọng với những hình ảnh tàn tạ đến thê lương, sự sống nơi đây như rơi rụng khi chiều tàn.

Chiều khép lại để nhường cho bóng tối của ban đêm, Thạch Lam diễn tả thật thi vị cái đêm mùa hạ ấy. Đó là một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Chị em Liên hãy còn ngồi trên chõng để nhìn ban đêm. Những cánh hoa bàng khẽ rung lên tóc liên và xuống chõng thật thi vị. thế nhưng trước sự thi vị ấy lại có một sự buồn không hề nhỏ. Tác giả xây dựng lên sự tương quan giữa ánh sáng và bóng tối để cho thấy cuộc sống nơi đây khi đêm về.

Ánh sáng nơi đây nào là khe sáng rồi lại “vòm trời hàng ngàn ngôi sao đua nhau lấp lánh” chị em liên nhìn lên như thấy cả ông Thần Nông trên đó. Vệt sáng của những con đom đóm. Thế rồi cả chấm sáng của lân tinh thoắt ẩn thoắt hiện, chấm lửa nhỏ, hột sáng từ ngọn đèn Liên, quầng sáng qua ngọn đèn hoa kì leo lét.

Tất cả những ánh sáng ấy đều được nói đến rất nhiều với mật độ dày đặc nhưng đó chỉ là những hạt, những khe ánh sáng mà thôi. Nó không thể nào xua đi bóng tối của buổi ấy, trong khi ấy bóng tối được tác giả chỉ dành cho mấy câu thôi nhưng nó đã lấn át hết những anh sáng kia. Đó là đường phố và những hình ảnh đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối “ Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, tất cả các con ngõ vào làng”.

Có thể nói Thạch Lam đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối. Sự có mặt của ánh sáng không xua được bóng tối trái lại nó còn làm nổ bật bóng tối. Sự tương phản ấy hay chính là biểu tượng cho những con người nơi đây khi sống kiếp người vô danh dưới màn đêm của xã hội thực dân phong kiến.

Trên nền bóng đêm ấy những cư dân kiếm sống ban đêm hiện lên và bắt đầu cuộc sống ban đêm của mình. Riêng chị em Liên thì được mẹ giao cho cái quán nhỏ ấy bán mấy thứ lặt vặt để kiếm thêm. Và xuất hiện đầu tiên trong bóng đêm ấy là mẹ con chị Tí. Mẹ con chị ấy ngày thì mò cua bắt ốc tối đến thì bán quán nước đến tận đêm khuya. Hai mẹ con chị chẳng bán được là bao nhưng đêm nào cũng dọn cũng bán đến tận đêm khuya mới thôi.

Tiếp theo là bác phở Siêu, nghề của bác lương khá cao nhưng lại có nguy cơ đáng sợ nhất. Vì ở đây phở bác Siêu là một món quà xa xỉ nhất. Góp mặt vào những cư dân sống trong bóng tối đó là gia đình bác Sẩm. Cả gia tài nhà bác chỉ có manh chiếu rách và một cái thau sắt đã lang ben. Bác chưa hát vì chưa có ai nghe, đứa con thì lăn ra đất nghịch cát, thỉnh thoảng bác góp một tiếng nhạc bàn bật trong đêm.

Không thể quên một nhân vật nữa đó là bà cụ Thi điên nghiện rượu. chiều nào cụ cũng đến nhà Liên mua rượu uống rồi cười khanh khách bước vào bóng tối với dáng vẻ lảo đảo. Tất cả những con người ấy hiện lên thật lam lũ vất vả. Trong đêm tối ấy họ vẫn mong chờ một điều gì đó tươi sáng hơn trong cuộc đời mình.

Thạch Lam không dùng một từ nào để miêu tả chân dung họ, không ai có một khuôn mặt một hình dáng, họ giống như một diễn viên trên sân khấu cuộc đời có thể đổi vai cho nhau nhưng không thể đổi phận cho nhau được. Và trong bóng tối tần ấy con người sống và hoạt động, có phải họ đang sống không hay là họ đang cầm cự sống?.

Tuy nhiên họ không mất niềm tin vào cuộc sống mà vẫn hi vọng một cuộc sống tươi sáng hơn. Đó là khoảnh khắc mà tất cả họ đều đang rất mong chờ- một chuyến tàu đêm đến. họ mong chờ vì điều gì?. Điều gì làm cho họ mong chờ đến như vậy?, nó khiến An dẫu buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức để đợi tàu đến. Cảnh tàu đến cả phố huyện như bừng sáng ánh sáng ấy phát ra từ những toa hạng sang trọng nhất. “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. ” Có thể nói chuyến tàu đêm đã mang lại ánh sáng cho phố huyện nơi đây. Thứ ánh sáng không hề bình thường mà nó là thứ ánh sáng thắp sáng niềm tin con người về một tương lai tươi sáng hơn.

Đối với những nhân vật kia thì họ mong tàu đến với mong ước là kiếm được thêm tiền khi tàu nghỉ và khách xuống. Còn đối với chị em Liên thì khác, liên không mong đợi bán thêm điều gì mà cô chỉ muốn ngắm đoàn tàu. Bởi vì nó là chuyến tàu từ Hà Nội về, nó giúp cô nhớ lại những ngày tháng khi gia đình còn giàu có, hai chị em Liên được bố dẫn đi bờ hồ ăn những que kem xanh đỏ. Có thể nói con tàu như một kí ức đẹp của Hà Nội trong hai chị em. Không những thế hai chị em cũng giống như những người dân nơi đây mơ ước một tương lai thật sự tươi sáng hơn.

Như vậy có thể thấy truyện ngắn Hai đứa trẻ đã mang đến cho chúng ta bức tranh toàn cảnh về cuộc sống của những người dân dưới chế độ thực dân phong kiến. chính cái xã hội ấy đã làm cho những con người ấy trở nên khốn khổ vất vả. Cuộc sống đối với họ giống như đang cầm cự vậy. biết rằng không ai mua nhưng vẫn cứ dọn ra và mong chờ. Có lẽ tác giả đã mang đến cho chúng ta những suy nghĩ trăn trở đối với những kiếp người ấy.

…………

Văn Mẫu Lớp 11: Cảm Nhận Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam 2 Dàn Ý &Amp; 7 Bài Cảm Nhận Hai Đứa Trẻ

Cảm nhận Hai đứa trẻ của Thạch Lam giúp chúng ta thấy được bức tranh làng quê Việt Nam với những người lao động nghèo khổ đang phải sống quanh quản trong tối tăm, bế tắc.

Dàn ý số 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Thạch Lam

Giới thiệu tác phẩm Hai đứa trẻ

2. Thân bài

2.1. Cảm nhận về bức tranh phố huyện

a. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn được khắc họa với đầy đủ âm thanh, màu sắc…

Cảnh chợ tàn: Chợ đã vãn, chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi vỏ thị…

⇒ Cảnh chợ tàn: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.

b. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

– Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối

⇒ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ ⇒ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.

Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau

c. Phố huyện khi đoàn tàu đi qua

Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu với : “ngọn lửa xanh biếc”, “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.”

Khi tàu đến: các toa đèn sáng trưng, sang trọng, của kính sáng, đem đến 1 thế giới khác

Khi tàu đi vào đêm tối: Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt., xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

⇒ Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước

2.2. Cảm nhận về con người phố huyện

a. Lúc chiều tàn

Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.

Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.

Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.

Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.

Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

⇒ Cuộc sống nghèo khổ lặp đi lặp lại

b. Khi đêm xuống

– Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:

Chị Tí dọn hàng nước

Bác Siêu hàng phở thổi lửa.

Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”

Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

⇒ Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.

⇒ Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.

3. Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Liên

Cô bé có tâm hồn nhạy cảm: Tâm trạng của Liên trước thời khắc ngày tàn

Cô bé có tình yêu quê hương: Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.

Cô bé có tấm lòng trắc ẩn: Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ

Cô bé giàu ước mơ, mộng tưởng: Mơ về Hà Nội xa xăm và ước mong một điều gì tốt đẹp hơn

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

– Khẳng định lại những thành công về mặt nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung văn bản

– Tác phẩm gửi gắm nhiều nỗi niềm của Thạch Lam về quê hương xứ sở

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về truyện Hai đứa trẻ

Dàn ý số 2

1, Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Thạch Lam và những đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Giới thiệu khái quát về truyện ngắn Hai đứa trẻ (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm,…)

2, Thân bài

A. Bức tranh chiều tàn nơi phố huyện nghèo và tâm trạng của Liên

Bức tranh thiên nhiên:

Âm thanh: “tiếng trống thu không[1] trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”, “một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”,“muỗi đã bắt đầu vo ve”.

Hình ảnh, màu sắc: “phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”,“dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời”.

Hình ảnh phiên chợ tàn: gợi lên trong người đọc hình ảnh một phố huyện nghèo nàn, xơ xác và thật tàn tạ

Hình ảnh con người: hình ảnh những đứa trẻ nhà quanh chợ “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi”, là mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vắng khách, là gia đình bác Siêu với gánh phở, là gia đình bác Xẩm với chiếu hát, là chị em Liên với quán hàng xén, là bà cụ Thi điên,…

Tâm trạng của Liên: “Liên thấy động lòng thương cảm”

B. Bức tranh cảnh vật và cuộc sống của những con người nơi phố huyện lúc đêm khuya

– Bút pháp tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối được sử dụng thành công:

Ánh sáng: leo lét, ánh sáng toát lên mà không biết sẽ vụt tắt lúc nào, nó chỉ là những khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…

Bóng tối: đen đặc, bao phủ khắp mọi nẻo đường nơi phố huyện “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

– Hình ảnh những con người nơi phố huyện: buồn tẻ, đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp lại hằng ngày một công việc, một suy nghĩ, một ước ao

C. Cảnh đợi tàu và tâm trạng của chị em Liên khi chuyến tàu đêm đi qua

Cảnh tượng đặc biệt và có ý nghĩa sâu sắc trong tác phẩm

Chờ chuyến tàu đêm đi qua mỗi đêm đã trở thành một phần quan trọng, không thể thiếu trong cuộc sống của những con người nơi đây. Họ chờ chuyến tàu ấy đi qua mỗi đêm cũng đúng thôi, bởi với họ, chuyến tàu ấy “mang đến một thế giới khác”

Với chị em Liên, chuyến tàu ấy còn gợi về trong họ bao kỉ niệm đẹp đẽ, ấm áp của tuổi thơ.

Qua cảnh đợi tàu cho chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo, trắc ẩn và giàu yêu thương của nhà văn Thạch Lam.

3, Kết bài

Khái quát giá trị nội dung (giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo) và giá trị nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ

Cảm nhận của bản thân về tác phẩm và các nhân vật trong tác phẩm cùng cách kể chuyện của nhà văn.

Đã mấy mươi năm trôi qua, người đọc vẫn không quên một dáng hình khiêm nhường, từ tốn, rất mực đôn hậu bước những bước thật nhẹ vào làng văn hiện đại Việt Nam, mang theo những trang văn nồng nàn hồn thơ. Đúng như Nguyễn Tuân nói, “sáng tác của Thạch Lam đem lại một cái gì đó nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ ở “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” lại một lần nữa dắt ta vào thế giới trẻ thơ với những cảm xúc êm nhẹ, buồn thương.

Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được thấm cảm bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi phố huyện qua cái nhìn tinh nhạy của cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên gói gọn trong hay từ “êm ả” và “đượm buồn”. Có âm thanh của tiếng trống thu không đánh lên từng hồi xa vọng, âm thanh của tiếng ếch kêu ran gợi tĩnh lặng một miền quê, âm thanh của tiếng muỗi vo ve đậm tô sự nghèo nàn. Không gian mở ra bởi màu “đỏ rực” của phương Tây, màu “ánh hồng” của mây trời, màu “đen sẫm” của tre làng. Có chút thanh bình, êm ả, nhưng cũng không ít thê lương, ảm buồn, nó đưa ta vào một miền không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê nửa tỉnh, với những xúc cảm giăng mắc nhẹ nhàng.

Nơi phố huyện được nới rộng ra theo không gian của một phiên chợ tàn: “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không còn là “lao xao chợ cá làng ngư phủ”, phiên chợ buổi vãn chiều thưa thoáng người, vắng sự náo nhiệt, tô đậm thêm sự lụi tàn.

Hiện lên trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn là những kiếp người tàn. Không phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng.

Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Đó là những đứa trẻ nhà nghèo “cúi lom khom” nhặt nhạnh những thanh tre thanh nứa còn sót lại trên nền chợ, là mẹ con chị Tí với quán hàng bán chẳng được bao nhưng đêm nào cũng dọn, là bà cụ Thi với tiếng cười ghê rợn đi lần vào trong bóng tối, là bác Siêu với gánh phở ế ít người vào ăn, là gia đình bác xẩm với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm. Họ đều là những phận người nhỏ bé, sống lê lết từng ngày trong sự tù đọng quẩn quanh trên cái “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người vô danh ấy, Thạch Lam bày tỏ một mối quan hoài sâu sắc về cuộc sống của hai đứa trẻ. Giữa lứa tuổi mà đáng lẽ thơ ngây còn chưa hết, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em trông coi hàng giúp mẹ ở một gian hàng nhỏ thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Thức hàng cũng chỉ là vài quả sơn đen hay mấy bánh xà phòng. Cơ cực đã đành, nhưng điều làm ta xa xót hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường đang dần ngưng trệ. Chúng ngày ngày phải giam mình trong không gian u tối của phố huyện, tự cầm cố tuổi xuân và sức trẻ, và có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.

Nhưng vốn là người “yêu mến và trang trọng trước sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ muốn dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dẫu hiện thực ấy có chân thật đến đâu. Cố tìm mà hiểu chất ngọc sáng ẩn tàng nơi mỗi con người, khơi sâu “cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”, đó mới là điều Thạch Lam luôn muốn làm. Có người nói, Thạch Lam sinh ra là để hóa giải hai khuynh hướng sáng tác, có lẽ điều ấy thể hiện rõ nhất là ở những vẻ đẹp trong tâm hồn cô bé Liên được nhà văn viết bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa một phố huyện nghèo nàn xơ xác vẫn sáng lên những xúc cảm tinh nhạy của một cô bé biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều buông xuống mà lòng tự thốt lên: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”, chị thấy ở đó sự yên bình, và thấy cả lòng “buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nghe hương ẩm từ nền chợ bốc lên mà tưởng như đó là “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống lụi tàn, có mấy ai cảm được từ “một đêm mùa hạ êm như nhung” những gợn gió thoảng qua, thổi mát tâm hồn, mấy ai để tâm đến hoa bàng rụng xuống vai khe khẽ từng loạt một? Vậy mà những chứng tích của một tâm hồn mới lớn đã gọi về hết thảy những cảm xúc ấy: vừa rung động trước cái đẹp nhẹ nhàng, vừa buồn thoáng qua trước yên bình tĩnh lặng.

Không chỉ có một tâm hồn tinh nhạy, ở Liên còn có một niềm trắc ẩn sâu sắc, một mối đồng cảm nồng hậu với những kiếp người nhỏ bé quanh mình. Cuộc sống chẳng khá hơn họ, nhưng không vì thế mà Liên khép lại lòng thương đối với những đứa trẻ nghèo, hay bớt đi lời quan tâm với mẹ con chị Tí. Chị cũng chẳng ngại rót đầy cốc rượu cho bà cụ Thi, chẳng thờ ơ với gánh phở bác Siêu, gia đình bác xẩm. Sự động lòng và niềm bao dung đối với những người xung quanh phải chăng là lòng đồng cảm yêu thương mà Thạch Lam đã gửi gắm gián tiếp qua nhân vật của mình?

Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng luôn thường trực mà chúng tự nhen lên ngay trong cuộc sống bế tắc của mình. Sinh thời, Thạch Lam từng tâm niệm: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ.” Hai đứa trẻ đã tự tìm cho mình niềm vui ở những lần chúng ngược dòng tâm tưởng, trở về quá khứ, miên man trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội nơi chúng từng được vui chơi, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hay những lần chúng ngước lên bầu trời đầy sao, tìm kiếm dòng sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông, cũng chính là lúc chúng để cho lòng mình lặng theo mơ tưởng. Nhưng có lẽ khao khát vẹn tròn nhất, ước mơ đủ đầy nhất, hai đứa trẻ gửi cả vào đoàn tàu. Không chỉ hai chị em Liên mà “từng ấy người trong bóng tối trông đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn sáng mãnh liệt nhất.

Đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của một ngày – trong con mắt Liên và những người dân nơi phố huyện lại chính là động lực cho họ cố bám bíu vào cuộc sống này. Đoàn tàu xuất hiện bắt đầu bằng tiếng reo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đoàn tàu mang theo ánh sáng rực rỡ, mang theo âm thanh náo nhiệt, chứ không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như ngọn đèn của chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu. Chị em Liên cố thức chờ tàu không phải vì để bán được dăm ba món hàng, mà để được chìm đắm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội ấy từng đựng đầy những kỉ niệm thân thương về một thời gia đình còn khấm khá, Hà Nội ấy trong tâm thức hai đứa trẻ là miền không gian đẹp vô tận và bạt ngàn niềm vui.

Vì lẽ đó mà đoàn tàu vừa như một tia hồi quang đưa hai chị em ngược dòng về quá khứ, vừa như một tia vọng quang thắp sáng cả tương lai. Nhưng nhìn ở một góc nào, phải chăng chính đoàn tàu lại càng tô đậm cuộc sống bế tắc của người nông dân, khi mà niềm vui lớn nhất trong ngày của họ chỉ là chờ tàu, chẳng thể làm gì hơn để vượt thoát khỏi không khí tù đọng cứ ôm trùm ấy. Qua đây, nhà văn muốn gửi một thông điệp: Cần phải thay đổi xã hội để cho những con người vô danh kia không phải sống vô nghĩa.

Hấp dẫn ta ở thiên truyện không chỉ bởi những nội dung tư tưởng sâu sắc thấm thía, tình cảm nhân đạo nồng nàn, mà còn ở những yếu tố nghệ thuật mang đậm phong cách Thạch Lam. Không xây dựng một cốt truyện bề thế hay một tình huống độc đáo li kì, “Hai đứa trẻ” chỉ như một “bài thơ trữ tình cảm thương” với những dòng tâm trạng đan xen, những chi tiết nhỏ lẻ, đủ gợi dư âm dư ảnh trong lòng bạn đọc. Tình huống Thạch Lam xây dựng không phải tình huống nhận thức, tình huống hành động, mà là tình huống tâm trạng – những dòng tâm trạng men theo lối chữ mà trải đều ra trên trang giấy. Nhân vật vì thế cũng là nhân vật tâm trạng. Liên hiện lên là một cô bé có những xúc cảm mong manh mơ hồ, chứ không phải những dòng tâm lí phức tạp như nhân vật của Nam Cao. Giọng văn vì thế cũng chỉ là giọng tâm tình thủ thỉ, ngôn ngữ nồng nàn chất thơ, mang đúng “cái tạng” của Thạch Lam.

Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc đời, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật biết lấy chất liệu từ cuộc sống và con người để dệt nên những trang văn sâu sắc trong tư tưởng, độc đáo trong hình thức thể hiện. Một lần nữa Thạch Lam đã làm được điều đấy qua “Hai đứa trẻ”. Thạch Lam mãi là nhà văn đáng được yêu thương và trân trọng nhất trong làng văn học hiện đại Việt Nam.

Nhà văn Thạch Lam là một cây bút tài hoa, trong mỗi câu văn của ông đều chứa đựng những tình cảm thiêng liêng dành cho quê hương dân tộc. Trong mỗi câu văn của Thạch Lam đều chứa đựng một tâm hồn vô cùng thuần Việt.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc xót xa, xúc động, nghẹn ngào trước những ước mơ giản dị, trước những chuyến tàu mang theo giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn của hai chị em Liên.

Câu chuyện được viết trong bối cảnh chiều buồn, khi mà sợ đã tan, phố huyện một nơi được coi như trung chuyển giữa thành thị và nông thôn, nơi không thành phố nhưng cũng chẳng nhà quê. Trong khung cảnh chợ tàn, ánh nắng chiều dần tắt. Hai chị em Liên ngồi nhìn những đống rác được vứt vương vãi trên mặt đất, mùi đất nồng nồng, ngai ngái thơm mùi quen thuộc.

Những tiếng trống thu không trên cái chòi của phố huyện nhỏ, từng tiếng vang lên trong buổi chiều…Tiếng ếch nhái kêu râm ran từ ngoài đồng theo làn gió đưa nhẹ vào. Phố huyện lúc chiều tàn thật bình lặng, yên ả, nhưng có lẽ sự bình lặng yên ả này lại khiến cho con người ta cảm thấy buồn man mác.

Những người bán hàng như chị em cô hàng xén lại ngồi trước cả ngóng trời, nhìn vơ vẩn xung quanh, xem có ai qua lại rồi bất chợt ghé mua chút đồ gì đó không? Hai mẹ con chị hàng nước đã dọn xong bàn nước, bác bán phở đã nhóm lại bếp than, bác hát Xẩm lại chờ khách đến nghe…Những con người nghèo khổ đó, đang sống trong bóng trong bóng tối mong chờ một điều gì đó sẽ tới cho tương lai tươi sáng hơn.

Ngòi bút của nhà văn Thạch Lam vô cùng tinh tế khi có thể miêu tả tường tận, chi tiết những âm thanh của cuộc sống, từ mùi đất nồng nồng ngai ngái, tới tiếng ếch nhái râm ran, tất cả đều khiến cho người đọc cảm nhận được rằng mình đang lạc vào giữa phố huyện nghèo nàn, tăm tối đó.

Từ khi nhà cô bé Liên có cái cửa hàng này đêm nào hai chị em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với ái tối của quãng phố xung quanh để quan sát cuộc sống của mọi người quanh mình.

Liên thấy chị Tí chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng hôm nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho tới đêm, việc làm này của họ không mang lại cho những con người nghèo khổ ấy một cuộc sống khấm khá hơn, nhưng cho họ niềm vui trong công việc.

Tác giả Thạch Lam đã vô cùng nhân văn, ông dường như đã đồng điệu với cô bé Liên, với những mảnh đời xung quanh cô bằng cách dựng lại những chi tiết trong không gian mênh mông bởi bóng tối đó. Trong những ngõ nhỏ đen sẫm bởi màu của bóng đêm. Những con người đó vẫn âm thầm mưu sinh, bằng công việc của mình.

Trong bóng tối đó dường như mọi thứ đều được thu nhỏ lại và ánh sáng rọi qua những phên nứa của nhà chị hàng nước, của cái bếp than hồng nhà bác bán phở…tất cả đều trở nên sáng lạ kỳ.

Chính sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa âm thanh tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái và sự tĩnh lặng đem lại cho nhân vật bé Liên những cảm xúc khó tả. Cô buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố ngồi gắng gượng chờ chuyến tàu đêm đi qua.

Chuyến tàu như một ngôi sao mang tới những tinh tú, mang tới cho người dân ánh sáng và sự hy vọng. Nó mang chút ồn ào ấm áp từ thành phố, từ nơi khác đến đây xua tan đi cái im lặng, tối tăm, vắng vẻ của phố huyện. Nó tỏa sáng, vang động, nó chính là giấc mơ kỳ diệu, huyền ảo của chị em Liên và những người lao động, lam lũ nơi đây.

Chuyến tàu như hư như thực. Nó chỉ đến trong vài phút giây ngắn ngủi nhưng hôm nào nó cũng tới, an ủi những số phận nghèo khổ lam lũ. Nó chính là sự hy vọng, là niềm mong chờ vào tương lai tươi sáng hơn của những người dân nghèo khổ.

Ở tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam tác giả không lựa chọn lối viết miêu tả nhiều, không đứng ở vị trí nhân vật tôi để kể chuyện. Mà ông viết bằng cảm giác tâm trạng của thế giới nội tâm nhân vật, qua thế giới mặt nhìn của nhân vật Liên người ta hình dung được những điều mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc.

Tác giả Thạch Lam là người có tài quan sát, tinh tế để có thể lột tả được hết những hy vọng mà những người dân phố huyện mong chờ trong bóng tối của niềm tin và sự hy vọng.

Trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” những câu văn của Thạch Lam vô cùng linh hoạt, đa dạng, vừa chứa đựng chất thơ, chất nhạc, lại mang tới một nỗi buồn nhẹ nhàng man mác vừa đủ để người đọc cảm thấy sởn gai ốc, nghẹn ngào vì những xót xa thương cảm của mình dành cho những số phận con người nơi đây. Nhưng nó lại không tăm tối tới mức bi đát hay túng quẫn tận cùng như những tác phẩm Chị Dậu, Lão Hạc, Chí Phèo…

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là khoảnh khắc của một đêm phố huyện buồn bã, trong những mảng tối và mảng sáng của những ánh đèn leo lét đó, một đêm có dấu chấm lửng ở cả hai đầu. Thạch Lam đã lựa chọn thời gian không gian, để nói lên những điều mình muốn nói với bạn đọc.

Điều này thể hiện sự dằn vặt của tác giả Thạch Lam trước cuộc sống, trước những mảnh đời bất hạnh của người dân khốn khổ. Nhưng tâm hồn bé nhỏ như hai chị em Liên đang mong chờ một điều gì đó vào một ngày mai tốt đẹp hơn, một tương lai tương sáng hơn cho những số phận lam lũ, nghèo khổ.

Chuyến tàu đêm đưa tới một sự hy vọng. Nó không chỉ đơn thuần là một chuyến tàu từ thành phố từ Hà Nội ghé qua mà nó chính là sự văn minh, là những ánh sáng của đô thị phồn hoa, là niềm hy vọng mong chờ của người dân phố huyện.

Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, ông đi sâu vào miêu tả tâm trạng nhân vật. Những truyện ngắn của ông là truyện không có cốt truyện, tiêu biểu là tác phẩm “Hai đứa trẻ” tái hiện lại khung cảnh và cuộc sống nơi phố huyện nghèo Cẩm Giàng-Hải Dương. Ngòi bút của Thạch Lam hướng đến việc khai thác sâu nội tâm nhân vật Liên trước mỗi khoảnh khắc của thời gian, không gian cho thấy tấm lòng “êm mát và sâu kín”, niềm xót thương vô hạn của ông đối với con người nơi đây nói riêng và những kiếp người nông dân nghèo trong xã hội cũ nói chung.

Tác phẩm “Hai đứa trẻ” rất tiêu biểu cho văn phong nhẹ nhàng, sâu lắng có đan xen yếu tố hiện thực và lãng mạn. Hiện lên trên từng con chữ là bức tranh cuộc sống của những kiếp người tàn sống lay lắt, mù mịt trong bóng tối, quẩn quanh không ánh sáng không tương lai trong xã hội cũ. Nhân vật chính trong truyện là hai chị em Liên, xung quanh họ là những con người cùng cảnh ngộ như mẹ con chị Tí, gia đình bác xẩm, bác phở Siêu, bà cụ Thi điên và những đứa trẻ con nhà nghèo. Cuộc sống của họ cứ lặp đi lặp lại nhàm chán, bế tắc không lối thoát chỉ có chuyến tàu đêm khuya mang đến cho họ ánh sáng và hi vọng.

Mở đầu là một khung cảnh ngày tàn được Liên – Cô bé mang trong mình tâm hồn nhạy cảm thu vào tầm mắt và cảm nhận những âm thanh, hình ảnh báo hiệu một ngày tàn sắp qua, chuẩn bị cho một đêm tối mới cũng giống như bao đêm khác. “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều; phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Tất cả đã sẵn sàng cho bóng tối bao trùm. Tâm trạng của con người cũng trở nên buồn bã, hiu quạnh “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất” giờ đây trên nền đất chỉ toàn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía, không khí bốc lên mùi ẩm mốc hòa trộn với mùi của đất mẹ quê hương. Thạch Lam như mượn cái nhìn của Liên để quan sát từ xa đến gần, từ trên cao của bầu trời xuống dưới mặt đất, cảnh chiều tà hiện lên vừa có nét giống như một bức tranh thủy mặc vừa giống như một bài thơ trữ tình nhẹ nhàng, sâu lắng.

Con người của kiếp ngày tàn hiện lên thật buồn bã đơn điệu. Vẫn là mẹ con chị Tí hằng ngày dọn hàng dưới gốc cây bàng, ở ngoài chợ chỉ còn lại đám trẻ con nhà nghèo đang nhặt nhạnh những thứ còn dùng được mà người bán hàng bỏ lại. Bà cụ Thi điên vẫn lầm lũi đi vào trong bóng tối với tiếng cười khanh khách. Còn chị em Liên cũng chỉ là trông gian hàng tạp hóa nhỏ xíu, bán những đồ lặt vặt để phụ giúp gia đình mà chẳng đáng là bao. Biết bao những kiếp người như vậy họ đã sống trong bóng tối, tù túng từ bấy lâu. Đến đây ta chợt nhớ đến những câu thơ của Huy Cận trong bài “Quẩn quanh”:

Khi màn đêm buông xuống phố huyện nhỏ chìm trong bóng tối “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Cả phố huyện giờ đây thu lại ở gánh hàng chị Tí, những ánh sáng leo lét yếu ớt của vài nhà còn thức hé ra một khe sáng, ngôi sao lấp lánh trên bầu trời, hay ánh đèn gánh phở bác Siêu, hột sáng thưa thớt của chị em Liên không thể chiến thắng nổi bóng tối dày đặc. Tưởng chừng như nó làm sáng lên cho phố huyện nhưng chỉ làm làm cho đêm tối càng thêm tối hơn. Những con nghèo khổ vẫn lặp đi lặp lại hàng ngày như thế. Quẩn quanh đó là bác Siêu với gánh phở còn ế ẩm, gia đình bác xẩm vẫn ngồi đợi những giọt hạnh phúc rơi với cái thau còn trống trơ, đứa con thì bò ra khỏi manh chiếu rách nhặt những rác bẩn vùi trong cát bụi bên đường, chị Tí vẫn mong ngóng khách tới. Còn Liên mơ hồ nhớ về Hà Nội xa xưa một thời cô và gia đình còn sống ở đó, từ khi cha bị mất việc buộc phải về nơi đây sinh sống. Thể xác ở thực tại nhưng tâm hồn gửi về quá khứ tươi đẹp để rồi cái buồn càng thấm sâu vào trong tâm trí Liên.

Về khuya là lúc con người ta chìm sâu vào giấc ngủ nhưng Liên, An cùng tất cả những người nơi phố huyện họ đều cố thức để đợi chuyến tàu đi qua. Phải chăng mẹ dặn là để bán được hàng? Thực tế Liên không hi vọng ai mua nữa có chăng chỉ là mua bao diêm hay gói thuốc lá là cùng. Không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lam đi sâu vào tâm trạng của Liên ở khoảnh khắc chiều tà và khi về đêm, tất cả đều có lí của riêng nó. Ở đây nhà văn lấy đó làm nền và lí giải vì sao tâm trạng háo hức mong chờ tàu qua của mọi người nơi đây đến vậy. Bởi họ hi vọng ở một tương lai có ánh sáng tốt đẹp hơn, họ mong muốn thoát khỏi bóng tối mù mịt và thực tại nghèo khổ. Lời nhận xét của Thạch Lam nghe mà chua xót, buồn rầu: “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Và chỉ có chuyến tàu đêm mới làm được điều đó. Khi viết những dòng này chắc hẳn Thạch Lam cũng thương cảm, xót xa vô cùng cho số phận của họ. Chính lòng nhân ái và vẻ đẹp tâm hồn ông quán xuyến chi phối mạch viết của tác phẩm.

“Hai đứa trẻ” đúng là một truyện không có chuyện tất cả chỉ là tâm trạng của Liên được đặc tả dưới ngòi bút thân thương, trân trọng của Thạch Lam. “Cây bút biệt tài chuyên về truyện ngắn” thể hiện được tài năng của mình, trong truyện của ông vừa tái hiện được thực tại cuộc sống nghèo khổ của ở phố huyện vừa mang chất lãng mạn khi tả cảnh thiên nhiên. Qua đó nhà văn vừa lên án, tố cáo xã hội cũ vừa mang tấm lòng nhân đạo, nhân văn cao cả. Thạch Lam trân trọng những khao khát, ước mơ, hi vọng nhỏ nhoi của những người nghèo khổ. Qua đó để lại cho ta bài học về sự hi vọng và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng.

Chạm đến những trang văn của Thạch Lam người đọc sẽ cảm nhận được cái tinh tế, cái dịu dàng trong từng câu chữ ở mỗi tác phẩm của ông. Truyện của Thạch Lam là như vậy, ông không tìm đến những gì siêu tục, những mâu thuẫn gay cấn, ông tìm về cuộc sống đời thường dung dị, lách sâu ngòi bút vào từng tâm hồn con người, từng cảnh ngộ để phát hiện, để trân trọng, nâu niu những khao khát bé nhỏ của họ. Đọc Hai đứa trẻ cũng đem đến cho người đọc những rung cảm như vậy, gấp trang sách ta vẫn còn bị lay động mãi không thôi bởi ước mơ đổi đời của những con người sống nơi phố huyện.

Tác phẩm bắt đầu bằng khoảnh khắc ngày tàn khi tiếng trống thu không vang lên từng tiếng một báo hiệu một buổi chiều đã về, khi phương tây ánh mặt trời đỏ rực như lửa cháy, khoảnh khắc của ngày tàn dần bao trùm lên không gian và cảnh vật. Khung cảnh ấy thật nên thơ mà cũng đượm buồn, có điều gì đó tha thiết, khắc khoải trong từng câu chữ: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Nhịp văn êm ái như chính nhịp sống chậm rãi, trầm buồn của cuộc sống con người nơi đây. Chẳng mấy chốc bóng tối đã phủ kín lối, tối đen hết cả con đường trong ngõ, con đường ra sông. Bấy giờ là lúc ngàn vì sao lấp lánh hiện lên bầu trời. Những vì tinh tú ở trên trời, những đốm sáng lập lèo của những con đom đóm ở mặt đất hòa cùng một điệu phần nào xua đi cái tăm tối của cuộc sống nơi đây. Bức tranh nên thơ, phác những nét rất mỏng, rất nhẹ, thấm đượm nỗi buồn. Là nỗi buồn của con người sang cảnh vật, hay của cảnh vật sang con người. Có lẽ là cả hai, chúng hòa vào với nhau làm bật lên nỗi buồn, sự quạnh hiu của cuộc sống nơi đây.

Trong bầu không khí bảng lảng bóng chiều, hay khi màn đêm đã buông xuống là những con người, là những kiếp người nhỏ bé, lay lắt sống ở phố huyện lần lượt hiện ra. Ta thấy hình bóng những đứa trẻ đang cặm cụi nhặt những thứ phế phẩm còn vương lại trên mặt đất sau buổi họp chợ. Ta thấy gia đình chị Tí bán hàng nước cặm cụi sống qua ngày, với những vị khách quá đỗi quen thuộc, dù “sớm với muộn mà có ăn thua gì”. Ta cảm nhận thấy trong câu nói cả sự bất lực, buông xuôi, nhưng chị vẫn đi vì vẫn không thôi hy vọng. Không chỉ vậy, ta còn thấy gia đình bác Siêu với gánh phở là thứ quà xa xỉ đối với đời sống nơi đây và tiếng cười khanh khách đầy ám ảnh của bà cụ Thi điên,… Như một thước phim quay chậm, Thạch Lam đã lần lượt, từng chút một cho chúng ta thấy cuộc sống của những con người nơi đây: chậm chãi, nhàm chán và bế tắc.

Nhưng trong khung cảnh ấy nổi bật lên là cuộc sống của hai chị em nhà Liên và An. Liên và An vốn ở thành thị, nhưng gia đình gặp biến cố nên đã chuyển về đây sinh sống. Mẹ cô thuê một cửa hàng nhỏ để hai chị em trông coi, kiếm thêm đồng ra đồng vào. Liên – cô gái mới lớn, nhạy cảm, tinh tế và mang trong mình những khao khát mãnh liệt về tương lai. Cái nhạy cảm của người con gái ấy được thể hiện ở rất nhiều cảnh huống khác nhau, khi là cái buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn, khi là nỗi thương thầm kín với những đứa trẻ nhặt rác nhưng chị cũng không thể giúp chúng, lúc lại là niềm cảm thông với gia cảnh nghèo khó của chị Tí,… Đặc biệt tâm hồn ấy còn được tô đậm khi chị ngồi lặng im trong bóng tối, và cảm nhận những sự vận động tế vi đã diễn ra xung quanh mình: “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tầm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Trong bóng đêm ấy, Liên vẫn không ngừng đưa mắt tìm kiếm, dõi theo những luồng ánh sáng khác nhau: là ánh sáng xa xôi của những ngôi sao, là ánh sáng của những con đom đóm,… và chính cô bé cũng mơ hồ không hiểu hết những cảm xúc của mình. Phải chăng, trong vô thức, trong tận cùng tâm hồn cô vẫn luôn khao khát, vẫn luôn hướng về tương lai tươi sáng, rực rỡ phía trước. Và khát khao đó đã được Thạch Lam thể hiện rõ nhất trong cảnh chờ đoàn tàu đi qua phố huyện.

Đoàn tàu qua phố huyện là hoạt động cuối cùng của đêm, nhưng tất cả mọi người đều chờ đợi khoảnh khắc đoàn tàu đi qua. Tiếng reo vui của bác Siêu: “đèn ghi đã ra kia rồi” hay tiếng Liên gọi em gấp gáp: “dậy đi, An. Tàu đến rồi” tất cả đều một lòng hướng đến sự chuyển động cuối cùng của đêm này. Đoàn tàu đến mang lại những điều cao cả hơn vật chất tầm thường, nó mang đến một thế giới khác, thế giới của ánh sáng, của niềm tin, hi vọng, thế giới của những giấc mơ đổi đời. Thật đáng trân trọng và nâng niu những mơ ước chân thành mà cháy bỏng của họ. Cuộc sống quẩn quanh bế tắc không làm họ mất đi niềm tin, mong muốn về một cuộc sống khác. Họ lặng lẽ sống qua ngày và nuôi dưỡng mơ ước ấy thông qua thế hệ trẻ (chị em Liên và An). Đối với chị em Liên và An, đoàn tàu còn là biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ, huy hoàng. Thạch Lam đã thật tinh tế khi đã phát hiện những tình cảm cao quý và đẹp đẽ ấy, ông đã lách sâu ngòi bút của mình để phát hiện và trân trọng những mơ ước cao đẹp của con người.

Hai đứa trẻ là tác phẩm giàu chất thơ, thẫm đẫm chất trữ tình ở khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, mông mơ mà đượm buồn, ở những cung bậc cảm xúc phong phú trong thế giới nội tâm của Liên. Nghệ thuật đối lập, tương phản giữa ánh sáng và bóng tối vừa cho thây hiện thực cuộc sống của con người nơi đây, vừa cho thấy niềm tin, hi vọng nhỏ bé mà mãnh liệt vào tương lai. Ngôn ngữ giản dị, tràn đầy cảm xúc. Giọng điệu linh hoạt, nhẹ nhàng mà lắng sâu cảm xúc nơi người đọc.

Những dòng cuối cùng kết thúc tác phẩm, người đọc dường như vẫn chìm đắm trong không gian bàng bạc chất thơ mà buồn da diết. Ta cảm thương cho số phận của những con người nghèo khổ, sống cuộc đời quẩn quanh, bế tắc nơi phố huyện. Nhưng đồng thời ta cũng trân trọng, nâng niu những ước mơ, khát vọng hướng đến tương lai tốt đẹp của họ. Với tác phẩm này cũng như rất nhiều tác phẩm khác Thạch Lam đã thể hiện tấm lòng nhân đạo và nhân văn sâu sắc của mình đối với con người.

Trong truyện ngắn nhà văn luôn chọn một nhân vật để làm điểm nhìn cho tác phẩm của mình. Tất cả những sự kiện, tình tiết hay biến cố đều được nhìn nhận và đánh giá qua góc nhìn của nhân vật ấy. Nếu như Nguyễn Thi chọn điểm nhìn qua nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình thì Thạch Lam chọn nhân vật Liên để nhìn nhận sự kiện tình tiết trong tác phẩm Hai đứa trẻ. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Liên – một cô gái vẫn còn rất nhỏ nhưng sớm thấm nhuần được sự cực khổ của miền quê mình.

Chọn Liên là điểm nhìn tác phẩm nhà văn cho thấy dụng ý của mình. Tại sao lại không chọn An một trong hai nhân vật chính của truyện. Điều này cũng rất dễ lý giải bởi vì An còn quá nhỏ thì không thể nào cảm nhận được hết những hiện thực diễn ra. Hay cũng không thể chọn chị Tý hay Bác Siêu vì họ mải mê kiếm tiền và không hiểu hết được những cảm nhận của hai đứa trẻ. Vậy cho nên chỉ có thể là Liên.

Trước hết Liên là một cô gái nhạy cảm. Là một cô gái còn nhỏ và sớm phải bước vào cuộc sống mưu sinh, sống nơi phố huyện nghèo ảm đạm Liên cảm nhận được rất nhiều thứ. Có thể nói chỉ những người có tâm hồn nhạy cảm mới cảm nhận được cái buồn phảng phất của cảnh tượng phố huyện. Cảnh tượng phố huyện cứ hiện lên qua con mắt của Liên, nói cách khác Liên đang dẫn người đọc bước đi cùng dòng thời gian từ cảnh chiều tàn, chợ tàn cho đến đêm tối và đoàn tàu từ Hà Nội về.

Cảnh phố huyện khi chiều về với tiếng trống thu không trên cái chòi của phố huyện văng ra để gọi buổi chiều và những hình ảnh của dãy tre làng, mặt trời đỏ rực. Không chỉ có màu sắc mà bức tranh phố huyện nghèo còn hiện lên với những âm thanh như tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng hay nhịp điệu chiều về qua câu văn “chiều, chiều rồi”. Tất cả những điều ấy được nhìn qua ánh mắt của Liên, cảm nhận bằng giác quan của Liên. Phải nói Liên quả thật là một cô gái nhạy cảm lắm mới có thể cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên quê hương đẹp êm ả như ru đến như thế. Không những thế bức tranh ấy giống như một bức họa đồng quê giản dị đơn sơ mộc mạc nhưng lại đậm chất thơ và nhạc. Tuy nhiên bức họa đồng quê ấy cũng mang một nét buồn phảng phất “Liên không hiểu sao lòng mình buồn man mác”. Trước hình ảnh thiên nhiên của phố huyện Liên cảm thấy lòng mình buồn. Tại sao ư? Có lẽ là tại cảnh tượng đó đẹp nhưng nó ấn định cái nghèo, xơ xác, cái tiêu điều trên từng cảnh vật khiến cho tâm trạng của Liên thấy buồn man mác.

Không những thế đến cảnh chợ tàn điểm nhìn Liên lại cho ta thấy được những cảnh tượng của rác rưởi vỏ bưởi vỏ thị. Đặc biệt chi tiết thể hiện rõ sự nhạy cảm của tâm hồn Liên chính là chi tiết Liên cảm nhận được cái mùi âm ẩm bốc lên. Đó có lẽ là mùi của đất cát và đó cũng chính là mùi quê hương.

Đến đêm tối về Liên cảm nhận được những hạt sáng, khe sáng leo lắt phát ra từ đèn của bác phở Siêu hay ngọn đèn chị Tý. Nhưng những ánh sáng ấy cũng không thể nào xua tan đi được bóng tối. “Tối hết cả đường từ nhà ra sông”. Thế nhưng tâm hồn Liên vẫn cứ ngập tràn trong ánh sáng của “những ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Và cứ thế “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát” đã thể hiện sự nhạy cảm trong tâm hồn Liên.

Hay khi ánh đèn của xe lửa về, Liên cảm nhận được sự sang trọng trong những toa có điện sáng trưng và những người lố nhố trên đó. Nó khiến cho Liên được an ủi và nhớ về những kỉ niệm khi còn được sung túc. Phải nói Liên nhạy cảm lắm thì mới có thể lấy niềm vui từ ánh sáng của chiếc xe lửa để nhớ lại những kí ức đẹp của tuổi thơ.

Không chỉ là một cô gái nhạy cảm Liên còn là một cô gái giàu lòng yêu thương con người. Cụ thể là chị thấy hình ảnh những đứa trẻ nghèo lang thang lom khom nhặt nhạnh những mảnh nứa mảnh tre còn sử dụng được. Nhìn thấy chúng Liên thương lắm nhưng hoàn cảnh của Liên cũng chẳng hơn gì chúng nó. Liên thương bà cụ Thi điên nên đã rót đầy cốc rượu cho bà. Đó chỉ là một cử chỉ nhỏ để Liên xót thương cho số phận một người đàn bà đã già mà không nơi nương tựa. Không chỉ vậy Liên còn thương cho mẹ con chị Tý sáng vất vả mò cua bắt tép chiều tối về lại dựng quán nước bán tới tận đêm. Liên thương gia đình bác Xẩm hát rong nhưng chưa hát vì không có khách hay bác Siêu dọn gánh hàng nhưng cũng chưa ai ăn vì theo Liên thì phở của bác là một món quà xa xỉ tại nơi phố huyện nghèo này. Có lẽ chính hoàn cảnh đã khiến cho Liên đồng cảm với những số phận con người ấy.

Vẻ đẹp tâm hồn còn được thể hiện qua khoảnh khắc cố thức đợi đoàn tàu từ Hà Nội về. Cụ thể là nét đẹp của một cô bé sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn luôn nhớ về quá khứ và hướng tới một tương lai tươi sáng hơn. Nếu như những người dân trong phố huyện đợi đoàn tàu về để kiếm thêm vài đồng mưu sinh thì chị em Liên đợi đoàn tàu về để hưởng lấy thứ ánh sáng mà phố huyện này không có. Đoàn tàu như thắp sáng cho niềm tin về một tương lai đầy ắp ánh sáng hi vọng ấy. Đoàn tàu cũng gợi nhắc cho Liên về một quá khứ với ban đêm đi chơi bờ hồ được ăn những cốc kem xanh đỏ mát lạnh.

Nói tóm lại truyện ngắn Hai đứa trẻ nổi bật lên hình ảnh nhân vật Liên với những nét đẹp tâm hồn đáng quý. Dù sống trong nơi bùn lầy nước đọng, sống trong khốn khó và mưu sinh nhưng bóng tối, nghèo khổ của phố huyện không làm giảm đi sự mộng mơ lãng mạn nhạy cảm của một cô gái mới lớn cũng như lòng thương người và khát khao về một tương lai tươi sáng. Trái lại nó còn làm cho những nét đẹp tâm hồn ấy sáng lên mạnh mẽ dạt dào hơn.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.

Nhưng Thạch Lam – người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu. Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát., không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mé ở hiện tại và cả niềm mơ ước ờ tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng, nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: Văn chương không phải là một cách để thoát li hay lãng quên, mà trái lại, văn chương “phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”, là tiếng kêu thương thoát ra những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 – 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường “truyện không có chuyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy.

Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian. Gam màu chủ đạo của khung cảnh là màu đỏ như lửa cháy: “Phương tây đỏ rực như cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn” . Những sắc màu này thường gợi lên sức sống, sự ấm nóng như với bức tranh của Thạch Lam lại chỉ gợi lên sự lụi tàn, mặt trời sắp lặn, những đám mây cũng như hòn than sắp tàn. Sự ảm đạm, buồn rầu bao trùm lên cảnh vật khi bóng chiều dần buông.

Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại võ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, … những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên. Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.

Liên là một cô gái mới lớn, tinh tế và nhạy cảm, trong khoảnh khắc của ngày tàn đã nhanh chóng nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên. Em cảm nhận thấy mùi vị của quê hương trong phiên chợ đã tàn: “một mùi ẩm mốc bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…” ấy là mùi vị đã thấm sâu trong tâm hồn em, tâm hồn của một người gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương.

Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn. Liên sửa soạn, vội vàng “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại” và nhẩm tính những món hàng đã bán được trong ngày. Rồi lần lượt chị Tí, bác xẩm, gánh phở bác Siêu xuất hiện. Chị Tí dọn hàng nước chờ đợi những khách hàng quá quen thuộc đi qua vào uống chén trà. Gánh phở bác Siêu lại là món ăn xa xỉ với người dân phố huyện, bởi vậy lúc nào cũng vắng khách. Bác xẩm gảy lên “mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” thu nhập chẳng đáng là bao. Hình ảnh cụ Thi điên có lẽ đã gây biết bao ám ảnh với người đọc, cụ triền miên trong cơn say, bước đi lảo đảo, dường như cụ tìm đến với hơi men để lãng quên thực tại cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, để quên đi những nỗi đau của thực tế. Những người dân phố huyện vẫn gắng gượng sống qua ngày, họ sống cuộc đời mòn mỏi, mà chưa thể tìm ra lối thoát cho chính mình. Họ cũng mang trong mình mơ ước “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn…” nhưng đó chỉ là mơ ước mơ hồ, chập chờn, vu vơ, không có đích đến. Nhưng ước mơ đổi đời của những người dân phố huyện cũng được tác giả nâng niu, trân trọng.

Trong khoảnh khắc của ngày tàn, khi bóng tối đã ngập đầy mọi nơi, Thạch Lam một cách rất tinh tế đã tìm ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, đầy lãng mạn của cảnh vật thông qua những cảm nhận nhạy bén của nhân vật Liên. Cô bé thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh, tưởng tượng đó là dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân thần nông. “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ…” Liên quả là người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, khi “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối” em vẫn tìm thấy những nguồn sáng khác nhau từ thiên nhiên, cảm nhận cái rơi thật khẽ, thật êm của hoa bàng rụng. Liên tìm đến ánh sáng không phải là một điều ngẫu nhiên, ánh sáng ấy chính là mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn của Liên. Em tìm nguồn sáng sáng xua tan đi bóng tối: khe sáng, hột sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng nhỏ bé, mong manh, yếu ớt, không đủ để xua đi bóng đêm. Đây đồng thời cũng là khao khát đổi đời để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của thực tại.

Nhưng có lẽ đẹp nhất, rực rỡ nhất chính là khoảnh khắc khi đoàn tàu vụt qua phố huyện nghèo. Không ai ngủ, không ai về trước khi đoàn tàu đi qua, ai cũng cố thức để chờ đoàn tàu đến, không phải là để cố gắng bán thêm được thứ gì, vì hầu như không có ai mua, mà là bởi để thấy được chút ánh sáng của sự sống, của niềm tin, hi vọng. Cũng bởi vậy mà, mặc dù đã buồn ngủ nhưng An vẫn cố nhắc chị khi nào đoàn tàu đến hãy gọi em dậy, trong mong manh vô thức, An cũng có khao khát đổi đời như tất cả người dân nơi đây. Khi đoàn tàu xuất hiện, tiếng reo lên đầy vui sướng: “đèn ghi đã ra kia rồi”, hồi còi tàu hỏa kéo dài, làn khói sáng trắng xuất hiện từ phía xa. Đoàn tàu vụt qua mang đến biết bao âm thanh: “tiếng xe rít mạnh vào ghi” , “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên”, đó là sự náo nhiệt, ồn ã, đông vui trái ngược hẳn với sự tĩnh lặng của phố huyện. Trên các toa tàu sáng rực “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh” nó gắn liền với cuộc sống sang trọng, giàu có trong phút chốc xua đi bóng tối, sự ảm đạm của cuộc sống nơi đây. Đoàn tàu đi qua, người ta vẫn cố nhìn theo đóm lửa xanh cho đến khi nó mất hẳn. Nếu đoàn tàu đi qua mang lại ánh sáng rực rỡ như sao băng thì giờ đây ở phố huyện chỉ còn lại vầng sáng nhỏ bé, leo lét, đêm tối lại bao bọc xung quanh. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ, của Hà Nội, gợi về một thế giới thần tiên mà hai đứa trẻ từng được trải nghiệm, là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà hai đứa trẻ cũng như tất cả người dân phố huyện đang khao khát.

Cốt truyện đơn giản, hầu như không có cốt truyện, nhưng giàu chất trữ tình đã ghi lại một cách chân thực và cảm động về mơ ước đổi đời của người dân phố huyện. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đặc sắc, với bức tranh nên thơ, lãng mạn mà đượm buồn. Ngôn ngữ nhẹ nhàng, tinh tế. Nghệ thuật tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối làm bật lên mơ ước đẹp đẽ của con người nơi đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là điểm cần lưu ý, nhân vật Liên chú ý đi sâu miêu tả những trạng thái tình cảm, cảm xúc vừa cho thấy tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ vừa cho thấy mơ ước về một cuộc sống khác ở em.

Bằng một truyện ngắn đậm chất trữ tình, Thạch Lam đã thể hiện niềm xót thương với những kiếp người nghèo nàn, sống quẩn quanh nơi phố huyện. Đồng thời tác phẩm cũng là sự nâng niu, trân trọng của nhà văn với những ước mơ đổi đời đẹp đẽ của con người nơi đây.

Mùa Của Những Nhớ Thương Đong Đầy

Tháng 1, tháng của gió núi và cái lạnh mùa đông, tháng của những ngồng cải âm thầm bung hoa tươi tắn. Một lần đến với Hà Giang mùa cải vàng nở rộ để nhớ thương nơi đây cả đời.

Mùa hoa cải nở vàng rực rỡ.

Sau bao bộn bề của cuộc sống thường ngày, tôi bỏ lại tất cả ở phía sau, quyết định tìm đến với Hà Giang mùa hoa cải vàng. Tôi đến Hà Giang trong một ngày nắng đẹp trời với đầy hân hoan. Tôi đã nghe, đã xem nhiều về Hà Giang, nhưng quả thật không một bức ảnh nào có thể lột tả hết được vẻ đẹp của Hà Giang mùa hoa cải nở rộ.

Đến Hà Giang vào những ngày đông lạnh giá, tôi ấn tượng với sắc vàng rực rỡ của những bông hoa cải trên mảnh đất cao nguyên. Những bông hoa cải tuy nhỏ nhắn, mong manh nhưng đầy kiên cường vươn lên khoe sắc rực rỡ nơi cao nguyên Hà Giang sỏi đá khô cằn.

Mùa của yêu thương và nỗi nhớ đong đầy.

Khung cảnh bình yên đến lạ.

Vẻ đẹp ấy như càng thu hút hơn với những tâm hồn yêu cái đẹp như tôi. Sắc vàng của hoa cải có mặt tại khắp mọi nơi. Từ dọc đường từ Cổng Trời – Quản Bạ đến thị trấn Đồng Văn hay phía sau chợ cổ, thị trấn Tam Sơn – Quản Bạ, Quyết Tiến – Quản Bạ, Sủng Là – Đồng Văn. Đâu đâu cũng tràn ngập sắc hoa cải rực rỡ. Những cánh đồng hoa cải rộng mênh mông không chỉ để ngắm mà còn làm nền cho những bức chân dung độc đáo thể hiện cho tâm hồn chân chất hồn nhiên của con người nơi đây.

 

Những bông hoa cải vàng tươi tắn có mặt ở khắp mọi nẻo đường Hà Giang.

Những bông cải màu sắc lung linh dưới nắng như đang nhảy múa bất chấp cái lạnh giá của mùa đông. Màu vàng rực rỡ ấy dường như làm cho vùng cao nguyên Hà Giang ấm áp và nên thơ hơn rất nhiều. Thu về, đông lập, cao nguyên đá Đồng Văn lại ngập tràn trong sắc hoa tươi tắn, một bức tranh Thu Đông đa sắc màu tuyệt đẹp.

Sắc vàng làm xua tan cái giá lạnh những ngày đông.

Đi giữa những cánh đồng hoa cải nở rộ, tôi mới cảm nhận được hết cái se lạnh của mùa đông vùng cao. Thả hồn với thiên nhiên một chút để tôi có thể tận hưởng hương hoa cải dìu dịu, thoang thoảng trong những làn gió. Để rồi phải thốt lên rằng Hà giang sao mà bình yên và nên thơ đến thế. Chỉ khi đứng ở mảnh đất nơi địa đầu Tổ quốc, tôi mới cảm nhận được hết vẻ đẹp và lòng tự hào dân tộc dâng trào trong tôi đến nhường nào.

Thả hồn với mây trời và hoa cỏ bao la.

Những đứa trẻ đang gùi trên lưng những giỏ hoa cải vàng rực rỡ.

Trên những cung đường, tôi bắt gặp những ánh mắt từ những người nông dân với khuôn mặt phúc hậu, trên lưng gùi những giỏ hoa cải vàng, gương mặt của sự rạng rỡ gùi những sương gió, đất trời, đá núi từ những bông cải. Họ đang mang cả mùa xuân về nhà. Ngắm nhìn khoảnh khắc bình dị ấy, tôi thấy yêu quý con người nơi đây thật nhiều.

Hà giang mùa cải vàng, mùa của sự tươi mới, mùa của tình yêu và nỗi nhớ thương đong đầy. Chắc chắn rằng đến rồi sẽ phải yêu, phải nhớ thương mảnh đất này.

Linh Linh

Đăng bởi: Vân Đoàn

Từ khoá: Hà Giang mùa cải vàng – mùa của những nhớ thương đong đầy

Những Trung Tâm Thương Mại Nổi Bật Nhất Ở Pattaya Thái Lan

Pattaya chắc chắn được biết đến nhiều với các hoạt động vui chơi giải trí hơn là nơi lựa chọn mua sắm, nhưng số lượng các trung tâm thương mại tốt nhất ở Pattaya Thái Lan tương đối ít vô tình biến nó thành điểm nhấn của du lịch Pattaya.

1. Central Festival Pattaya

Là tòa nhà cao và nổi bật nhất nằm gần trung tâm Beach Road Pattaya, Central Festival Pattaya là một trung tâm mua sắm, ăn uống và vui chơi rất phổ biến ở thành phố du lịch Pattaya Thái Lan kể từ khi được mở cửa vào năm 2009. Các trung tâm chính bao gồm 313 cửa hàng và dịch vụ trên bảy tầng, với phần còn lại của tòa nhà là khách sạn Hilton Pattaya. Chạy dọc khu mua sắm Central Festival hầu hết là các cửa hàng chuẩn (bao gồm siêu thị thương hiệu, cửa hàng bách hóa và khu ăn uống) là những cái tên như Zara, North Face và Calvin Klein… Ngoài ra còn có cửa hàng điện tử, khu trượt băng, một rạp chiếu phim 10 màn hình, 16 làn chơi bowling và các trò vui chơi giải trí khác.

Giờ mở cửa: 11:00-23:00

Địa chỉ: 333/99 Moo 9, Pattaya Beach Road, South Pattaya

Điện thoại: +66 (0) 3 300 3999

2. Royal Garden Plaza Pattaya

Với hình dạng một chiếc máy bay màu đỏ tươi nhô ra khỏi phía Second Road và một quả bóng màu vàng và màu trắng nhô lên khỏi mái nhà, Royal Garden Plaza được xem là một trong những địa điểm mua sắm nổi bật nhất ở Pattaya. Bên trong là một lựa chọn đầy ấn tượng với các cửa hàng đường phố, trong đó có Levi, Converse, Von Dutch và nhiều hơn nữa. Phía Beach Road rải rác với các nhà hàng thức ăn nhanh và những lựa chọn ăn uống khác có sẵn, kèm theo là Pattaya Marriott Resort & Spa làm cho nơi đây trở nên phổ biến. Hầu hết các tầng trên cùng của trung tâm mua sắm Royal Garden Plaza là bảo tàng Ripley “Believe It or Not!”

Giờ mở cửa: 10:30-23:00

Địa chỉ: 218 Pattaya Beach Road, South Pattaya

Điện thoại: +66 (0) 3 841 6972

3. Mike Shopping Mall

Trái ngược hoàn toàn với những trung tâm mua sắm tốt nhất ở Pattaya, Mike Shopping Mall chỉ có một số ít cửa hàng thời trang nổi tiếng bên trong. Thay vào đó, phần lớn diện tích được sử dụng cho các quầy bán đồ tắm biển, giày dép, túi xách và các phụ kiện khác. Các mức giá trong khu này phù hợp với những gì bạn mong đợi, là một nơi tuyệt vời để tìm kiếm quà lưu niệm giá rẻ. Trên sân thượng của tòa nhà là một bể bơi công cộng và một quán cà phê nhỏ với một vị trí ngắm biển tuyệt đẹp.

Giờ mở cửa: 10:00-23:00

Địa chỉ: 262 Moo 10, Pattaya Second Road, South Pattaya

Điện thoại: +66 (0) 3 841 2000

4. Pattaya Avenue

Là một trong những trung tâm thương mại tốt nhất ở Pattaya với loạt ấn tượng ban đầu là nhà hàng và chợ đêm ngay phía trước, Pattaya Avenue là một nơi trải nghiệm mua sắm thú vị ở Pattaya. Các cửa hàng ở tầng trên là khu vực có giảm giá lớn cho các nhãn hiệu hàng đầu quốc tế, bao gồm Adidas, Quiksilver và Playboy, trong khi các tầng thấp hơn được lắp đầy bằng các cửa hàng chủ yếu của địa phương, cũng như dạng siêu thị ngoại ô. Ngoài ra tại trung tâm mua sắm ở Pattaya Avenue còn có một rạp chiếu phim và khu chơi bowling thường mở trễ vào ban đêm, làm cho Pattaya Avenue trở thành một địa điểm vui chơi giải trí tốt.

Giờ mở cửa: 11:00-23:00

Địa chỉ: 399/9 Moo 10, Pattaya Second Road, South Pattaya

Điện thoại: +66 (0) 3 841 4031-3

5. Outlet Mall Pattaya

Tạo nên từ hai tòa nhà với trung tâm mua sắm chính trong nhà và một khu vực ngoài trời giống như đường phố đằng sau nó. Trong trung tâm mua sắm của Outlet Mall Pattaya thiếu các lựa chọn giải trí với mức giảm giá nổi bật. Outlet Mall Pattaya là khu mua sắm theo phong cách hàng factory outlet với mức giá giảm đến 70% cho các mặt hàng hiệu thời trang, với các cửa hàng có sẵn bao gồm Nike, Timberland, Warner Bros Studio, Lacoste, Adidas, Levi, Samsonite và nhiều hơn nữa. Trung tâm thời trang cao cấp ở mức thấp hơn của tòa nhà chính bao gồm một mô hình chợ đường phố với nhiều nhãn hiệu địa phương và quốc tế. Các lựa chọn ăn uống rất hạn chế, phản ánh được chất lượng của phần còn lại trung tâm mua sắm với đặc tính chi phí thấp.

Giờ mở cửa: 10:00-22:00

Địa chỉ: 666 Moo 12, Thepprasit Road, Jomtien

Điện thoại: +66 (0) 3 842 7764-5

6. Central Center Pattaya

Địa điểm mua sắm cuối cùng trong 6 trung tâm thương mại tốt nhất ở Pattaya phải kể đến là Central Center Pattaya thường được gọi là “Big C Bắc” để giúp mọi người tránh nhầm lẫn với một trung tâm mua sắm tương tự trên Beach Road. Tại đây có hơn 130 cửa hàng và dịch vụ, bao gồm một rạp chiếu phim 5 màn hình, nhà hàng, một góc dành riêng cho hàng điện tử và các thương hiệu trong nước và quốc tế dành cho quần áo, đồ trang sức và phụ kiện. Có vị trí thiết kế thoáng mát, với một sân cây rải rác và mái vòm, máy điều hòa nhiệt độ phía trong, làm cho địa điểm mua sắm Central Center Pattaya trở thành nơi mua sắm thú vị hơn ở Pattaya.

Giờ mở cửa: 9:00-23:00

Địa chỉ: 78/54 Moo 9, Pattaya Second Road, North Pattaya

Điện thoại: +66 (0) 3 300 3888

Đăng bởi: Viên Khánh

Từ khoá: Những Trung Tâm Thương Mại Nổi Bật Nhất Ở Pattaya Thái Lan

Cập nhật thông tin chi tiết về Tai Nạn Thương Tâm Của Những Đứa Trẻ Hiếu Động trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!