Bạn đang xem bài viết Chủ Nghĩa Yêu Nước – Wikipedia Tiếng Việt được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Defense of the homeland is a commonplace of patriotism : The statue in the courtyard of École polytechnique Paris, commemorating the students ‘ involvement in defending France against the 1814 invasion of the CoalitionChữ patrie, tiếng Pháp là đất mẹ, quê hương hay Tổ quốc. Đó có thể là một khu vực, làng, thị trấn, đất nước hay liên bang.
Theo Andrea Baumeister, chủ nghĩa yêu nước (lòng yêu nước) là cảm xúc tận tâm và gắn kết với một quốc gia, dân tộc, hay cộng đồng chính trị. Chủ nghĩa yêu nước (tình yêu nước) và chủ nghĩa dân tộc (lòng trung thành với dân tộc) thường được coi là đồng nghĩa, nhưng chủ nghĩa yêu nước có nguồn gốc khoảng 2.000 năm trước khi chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy vào thế kỷ 19. Chủ nghĩa yêu nước gắn với sự gắn bó riêng biệt với dân tộc được xem là biểu hiện chủ nghĩa sô vanh và trái ngược với chủ nghĩa thế giới cũng như giá trị đạo đức chung của toàn thể nhân loại / loài người.[1] Nói cách khác, chủ nghĩa dân tộc là chính sách hay học thuyết khẳng định lợi ích của quốc gia / dân tộc mình được coi là tách biệt với lợi ích của các quốc gia / dân tộc khác hoặc lợi ích chung của tất cả các quốc gia / dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là một loại chủ nghĩa yêu nước thái quá, hiếu chiến. Chủ nghĩa dân tộc thường được hiểu mang tính tiêu cực, còn chủ nghĩa yêu nước thường được hiểu mang tính tích cực. Chủ nghĩa dân tộc thường thể hiện tình yêu thái quá và độc quyền với quốc gia / dân tộc, và bài ngoại, kỳ thị người nhập cư hay một nhóm người cùng sinh sống trên một quốc gia nhưng khác biệt sắc / chủng tộc hay tôn giáo[2][3]. Có một cách phân biệt khác, sự khác biệt giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là người yêu nước tự hào về đất nước của mình vì những gì nó xứng đáng, còn người theo chủ nghĩa dân tộc tự hào về đất nước của mình bất kể thứ gì[4], tức sự tự hào một cách mù quáng và cực đoan. Một dân tộc thường là thể hiện sự gắn bó của một sắc tộc hay cộng đồng văn hóa, nhưng chủ nghĩa dân tộc thì còn gắn với nhà nước, khái niệm national state[5].
Bạn đang đọc: Chủ nghĩa yêu nước – Wikipedia tiếng Việt
Theo Oscar Wilde: “Lòng yêu nước là đức tính của những kẻ xấu xa. Lòng yêu nước quá mức là hình thức giả dối nhất của sự kiêu ngạo”[10]
Theo V.I.Lênin “Lòng yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”.
Theo Hồ Chí Minh “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.[11]
Imiquimod – Wikipedia Tiếng Việt
Imiquimod (INN) là một loại thuốc theo toa, hoạt động như một trình sửa đổi đáp ứng miễn dịch và được sử dụng để điều trị mụn cóc sinh dục, ung thư biểu mô tế bào đáy, và dày sừng quang hóa. Các nhà khoa học tại công ty con dược phẩm của 3M phát hiện ra chất này và 3M đã được chấp thuận của FDA vào năm 1997 để sản xuất thuốc này dưới thương hiệu Aldara. Tính đến năm 2023 imiquimod là thuốc đại trà và có sẵn trên toàn thế giới dưới nhiều thương hiệu.
Imiquimod là một tác nhân điều biến miễn dịch, kích thích cung ứng miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch mắc phải trải qua cảm ứng interferon α ( IFN-α ) và tăng sinh những đại thực bào, bạch cầu đơn nhân, tế bào lympho B, đặc biệt quan trọng là tế bào tua gai. Imiquimod hoạt hóa tế bào miễn dịch bằng cách tác động ảnh hưởng lên TLR7 và TLR8 sau đó hoạt hóa yếu tố NF-κB ( nuclear factor-kappa B ) và cảm ứng những cytokin, chemokin của quy trình viêm và những trung gian hóa học khác như IFN-α, yếu tố gây hoại tử khối u ( TNFα ), interleukin IL – 2, IL – 6, IL – 8, IL – 12. Imiquimod không có hoạt tính kháng virus trên in-vitro. Hoạt tính kháng virus gián tiếp trải qua những cytokin và hoạt hóa mạng lưới hệ thống miễn dịch. Không những tăng cường kích thích những tế bào tua gai sản xuất cytokin của quy trình viêm, imiquimod còn tăng bộc lộ của dấu ấn CCR7 giúp tế bào tua gai chuyển dời vào trong những mạch máu và hạch bạch huyết, cải tổ năng lực sống sót của những tế bào tua. Một vai trò quan trọng khác của imiquimod là tương hỗ cho sự trưởng thành của tế bào tua gai. Tuy nhiên, mức độ vận động và di chuyển đến da vẫn chưa được xác lập. Imiquimod cũng kích thích sự tăng sinh của tế bào lympho B in-vitro
Trên đối tượng người tiêu dùng có da lành lặn ( n = 6 ), sau khi bôi một liều 5 mg imiquimod [ C14 ], nồng độ imiquimod [ C14 ] không hề định lượng trong huyết thanh ( nhỏ hơn 1 ng / mL trên những đối tượng người tiêu dùng trên ), và chỉ có 0,9 % imiquimod tìm thấy trong nước tiểu và phân .
Trên những bệnh nhân bị mụn cóc ở bộ phận sinh dục hoặc bị mụn cóc quanh hậu môn (n=12) được điều trị với Imiquimod trong 3 lần 1 tuần trong 16 tuần, đỉnh nồng độ của thuốc trong huyết thanh nằm trong khoảng 0,1 – 0,3 ng/ml được tìm thấy trong suốt quá trình nghiên cứu.
Bạn đang đọc: Imiquimod – Wikipedia tiếng Việt
Như vậy, Imiquimod hấp thu qua da rất hạn chế.
Nghiên cứu trên invitro, 90 – 95% imiquimod liên kết với protein huyết tương và không phụ thuộc vào nồng độ của thuốc trong ngưỡng trị liệu.
Brand name : Aldara, ZyclaraGeneric : You care cream 5 %
Polyethylen Glycol – Wikipedia Tiếng Việt
Poly(ethylen oxide) (PEO) là một polyether với nhiều ứng dụng trong công nghiệp sản xuất y dược. PEG cũng được biết đến như poly ethylen glycol (PEG) hoặc polyoxyethylen (POE), tùy thuộc vào trọng lượng của phân tử. Cấu trúc của PEG thường được mô tả: H−(O−CH2−CH2)n−OH.
PEG, PEO và POE thường được hiểu là oligomer hoặc polymer của ethylen oxide. Ba tên gọi này là đồng nghĩa về mặt hóa học, nhưng về lịch sử, PEG được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực y sinh học, trong khi đó, PEO được dùng phổ biến hơn trong lĩnh vực hóa học polymer. Bởi vì các ứng dụng khác nhau đỏi hỏi độ dài mạch polymer khác nhau, PEG thường là các polymer hoặc oligome có trọng lượng phân tử dưới 20,000 g/mol, PEO thường là để chỉ các polymer này có một khối lượng phân tử trên 20.000 g/mol, còn POE để chỉ loại polymer này có khối lượng phân tử bất kỳ.[2] Các loại PEG được tạo thành từ phản ứng trùng hợp của otylen oxit và các sản phẩm PEG thương mại có thể có khối lượng phân tử từ 300 g/mol đến 10,000,000 g/mol.
PEG và PEO là những chất lỏng hay chất rắn có nhiệt độ nóng chảy thấp, tùy thuộc vào khối lượng phân tử. Trong khi PEG và PEO có khối lượng phân tử khác nhau được sử dụng trong những ứng dụng khác nhau, và có những đặc thù vật lý khác nhau ( ví dụ như độ nhớt ) do hiệu ứng độ dài mạch của chúng, những đặc thù hóa học thì gần như giống nhau. Sự hình thành của PEG cũng có nhiều dạng khác nhau, tùy thuộc vào chất khởi đầu ( chất khơi mào ) được sử dụng trong quy trình trùng hợp – chất khởi đầu phổ cập nhất là một PEG metyl ete đơn chức, hoặc methoxy-poly ( ethylen glycol ), viết tắt là mPEG. PEG khối lượng phân tử thấp thường là những oligomerr tinh khiết hơn, có độ đa phân tán rất thấp ( monodisperse ), như nhau hoặc gián đoạn. Gần đây, PEG tinh khiết rất cao đã được chứng tỏ là có dạng tinh thể, cấu trúc tinh thể đã được xác lập bằng nhiễu tia X. [ 3 ] Do quy trình tuyển tách và tinh chế oligomerrs là khó khăn vất vả, giá tiền của loại có chất lượng cao này thường gấp từ 10-1000 PEG đa phân tán ( độ đa phân tán khối lượng phân tử rộng ) .
PEG cung có nhiều cấu trúc hình học khác nhau.
Bạn đang đọc: Polyethylen glycol – Wikipedia tiếng Việt
PEG dạng Nhánh có ba đến 100 chuỗi PEG xuất phát ra từ một chuỗi mạch chính.
PEG hình Sao có 3 đến 10 PEG nhánh PEG xuất phát từ một lõi trung tâm.
PEG hình răng lược có nhiều nhánh PEG được ghép trực tiếp và đều đặn vào một chuỗi mạch polymer chính.
Những con số đặt sau tên PEG dùng để chỉ khối lượng phân tử trung bình (ví dụ: PEG 400 là PEG có khối lượng phân tử trung bình khoảng 400 daltons, tương ứng với độ trùng hợp n = 9).
Polyethylene glycol 400, chất lượng y tếViệc sản xuất của poly ethylen glycol đã được báo cáo giải trình tiên phong vào năm 1859. Cả hai tác giả A. V. Laurence và Charles Adolphe Wurtz một cách độc lập đã cô lập được mẫu sản phẩm đó là polyethylen glycol. [ 5 ] Polyethylen glycol được sản xuất bởi sự tương tác của ethylen oxide với nước, ethylen glycol, hoặc oligomer ethylen glycol. [ 6 ] Phản ứng được xúc tác bởi axit hoặc kiềm. Ethylen glycol và những oligomer của nó là những vật tư xuất phát thích hợp thay vì nước, do tại chúng được cho phép sự tạo thành polymer với độ đa phân tán thấp. Độ dài mạch polymer phụ thuộc vào vào tỉ lệ những chất phản ứng .
HOCH2CH2OH + n(CH2CH2O) → HO(CH2CH2O)n 1H
PEG là chất cơ bản của một số thuốc nhuận tràng. Hệ thống tưới đại tràng với polyethylene glycol và thêm các chất điện giải được sử dụng cho ruột chuẩn bị trước khi phẫu thuật hoặc nội soi.
PEG cũng là một tá dược trong nhiều dược phẩm.
Khi gắn liền với nhiều protein thuốc, polyethylen glycol cho phép một sự giải chậm của protein mang ở trong máu.[7]
Tân Nhân – Wikipedia Tiếng Việt
Đừng nhầm lẫn với Tân Nhàn
Tân Nhân (1932-2008) là một ca sĩ nhạc đỏ, nổi tiếng trong thập niên 1950-1970. Tên tuổi của Bà gắn liền với ca khúc Xa khơi của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ và nhiều ca khúc trữ tình cách mạng khác.
Bà tên thật Trương Tân Nhân, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1932 tại làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Quảng Trị, trong một gia đình trí thức. Cha bà là ông đốc Hy, mẹ là con gái trong một gia tộc họ Hoàng. Lớn lên bà học tại trường nữ sinh Đồng Khánh (Huế).
Cách mạng tháng 8 thành công, bà thoát ly gia đình theo cách mạng khi mới 13 tuổi. Bà tham gia đội phản gián, làm nhiệm vụ đưa tin, rải truyền đơn. Năm 1949, bà tham gia vào Đoàn Văn công Quân đội mặt trận Bình Trị Thiên và Trung Lào. Năm 1954, bà là diễn viên đơn ca tại Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương. Năm 1963, bà theo học khoa Thanh nhạc Trường Âm nhạc Việt Nam và tốt nghiệp năm 1968. Từ năm 1969 đến năm 1972, bà tu nghiệp tại Nhạc viện Sofia, Bulgaria. Về nước năm 1973, bà làm việc tại Đài Phát thanh Giải phóng, rồi Đài Tiếng nói Việt Nam. Bà còn là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa II. Bà còn tham gia công tác đào tạo diễn viên cho Lào, xây dựng dàn hợp xướng cho các đội hợp xướng thiếu nhi ở Thủ đô Hà Nội.
Bạn đang đọc: Tân Nhân – Wikipedia tiếng Việt
Tân Nhân có một giọng nữ cao trữ tình, đậm chất miền Trung. Bà thành công với nhiều ca khúc dân ca và trữ tình cách mạng như Xa khơi (Nguyễn Tài Tuệ), Tát nước đêm trăng, Nắng Ba Đình, Tình quê, Ru con (dân ca Nam Bộ), Tình quê hương (Trọng Bằng), Anh về miền Bắc, Chim Pongkle (Nhật Lai), Lăm tơi, Bên nôi con mẹ hát (Lê Lôi), Câu hò bên bờ Hiền Lương (Hoàng Hiệp – thơ Đăng Giao), Nhớ… và một số ca khúc nước ngoài. Đặc biệt với Xa khơi, được thu âm vào thập niên 1960, bà được đánh giá là người thể hiện thành công nhất ca khúc này, và đây cũng là một ca khúc gắn liền với tên tuổi của bà, được công chúng yêu thích và đón nhận rộng rãi [1].
Tân Nhân đã được trao tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất và thương hiệu Nghệ sĩ xuất sắc ưu tú ( 1988 ). Bà mất vào ngày 14 tháng 2 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 76 tuổi .
Năm 1949, trong trận càn ở Phong Lai, bà đã mất liên lạc với cơ sở. Tưởng bà đã chết, trường Huỳnh Thúc Kháng (nơi bà đang theo học) đã tổ chức truy điệu bà. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ – người bạn học cùng quê – đã viết ca khúc Xuân chết trong lòng tôi để tưởng nhớ tới bà:
… Xuân ơi xuân Chim xa đàn Xuân ơi xuân Ngờ đâu xuân chết trong lòng tôi Trong tiếng đàn…Về sau bà đã yêu Hoàng Thi Thơ. Sau này Hoàng Thi Thơ sang bên kia chiến tuyến, riêng bà lúc đó đang mang thai. Về sau, Tân Nhân ở lại đất Bắc nuôi dạy con là Lê Khánh Hoài ( lấy họ theo người cha dượng tức người chồng thứ hai của bà là nhà báo Lê Khánh Căn nguyên đảm nhiệm Phòng Văn nghệ Đài Tiếng nói Nước Ta ( cơ sở 2, tại Thành phố Hồ Chí Minh ) và nguyên Trưởng ban Bạn đọc Báo Nhân dân [ 2 ] [ 3 ] ). Hiện nay Lê Khánh Hoài đang làm phóng viên báo chí, hoạt động giải trí trong nghành điện ảnh và kịch nghệ. Bà có hai người con ( một trai một gái ) với người chồng thứ hai là Lê Khánh Châu và Lê Khánh Như. Lê Khánh Châu lấy con gái cả nhà thơ Tố Hữu, hiện là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học của Đại học Bochum – Cộng hòa Liên bang Đức [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] .
Nghiện Internet – Wikipedia Tiếng Việt
Nghiện Internet (tiếng Anh: Internet addiction disorder, IAD) được định nghĩa là việc sử dụng Internet có vấn đề, mang tính lạm dụng, dẫn đến suy giảm đáng kể chức năng của một cá nhân trong các lĩnh vực cuộc sống khác nhau trong một thời gian dài. Thanh niên là một trong những nhóm có nguy cơ đặc biệt phát triển rối loạn nghiện Internet hoặc sử dụng Internet có vấn đề.[1]
Sử dụng Internet quá mức chưa được Tổ chức Y tế Thế giới, Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM-5) hoặc Phân loại Bệnh tật Quốc tế (ICD-11) công nhận là rối loạn. Chẩn đoán rối loạn chơi game đã được đưa vào Bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD-11). Tranh cãi xung quanh chẩn đoán bao gồm liệu rối loạn là một thực thể lâm sàng riêng biệt hay là biểu hiện của các rối loạn tâm thần tiềm ẩn. Nghiên cứu đã tiếp cận câu hỏi từ nhiều quan điểm khác nhau, không có định nghĩa được chuẩn hóa hoặc thống nhất trên toàn cầu, dẫn đến khó khăn trong việc xây dựng các khuyến nghị dựa trên bằng chứng.
Bạn đang đọc: Nghiện Internet – Wikipedia tiếng Việt
Một điều tra và nghiên cứu dọc về học viên trung học Trung Quốc ( 2010 ) cho thấy rằng những người có rủi ro tiềm ẩn nghiện Internet từ trung bình đến nặng có rủi ro tiềm ẩn mắc những triệu chứng trầm cảm cao hơn 2,5 lần so với những người không nghiện internet. [ 4 ]
Bằng chứng được ghi nhận tốt nhất về chứng nghiện Internet cho đến nay là sự gián đoạn thời hạn, dẫn đến ảnh hưởng tác động đến đời sống xã hội thông thường, gồm có cả việc học tập, hiệu suất nghề nghiệp và thói quen hàng ngày. [ 5 ] Một số điều tra và nghiên cứu cũng bật mý rằng nghiện internet hoàn toàn có thể dẫn đến sự gián đoạn những mối quan hệ xã hội ở châu Âu và Đài Loan. [ 6 ] [ 7 ] Tuy nhiên, những người khác cũng chú ý quan tâm rằng việc nghiện internet có lợi cho những mối quan hệ đồng mức ở Đài Loan. [ 8 ]Tiến sĩ Keith W. Beard ( 2005 ) nói rằng ” một cá thể bị nghiện khi trạng thái tâm ý của một cá thể, gồm có cả trạng thái ý thức và cảm hứng, cũng như những tương tác học tập, nghề nghiệp và xã hội của họ, bị suy giảm do lạm dụng [ Internet ] “. [ 9 ]Do đặc thù phức tạp của nó, một số ít học giả không đưa ra định nghĩa về chứng rối loạn nghiện Internet và trong suốt thời hạn, những thuật ngữ khác nhau được sử dụng để diễn đạt cùng một hiện tượng kỳ lạ sử dụng Internet quá mức. [ 10 ] Rối loạn nghiện Internet được sử dụng thay thế sửa chữa cho việc sử dụng Internet có yếu tố, sử dụng Internet bệnh lý và rối loạn nghiện Internet. Trong một số ít trường hợp, hành vi này còn được gọi là lạm dụng Internet, sử dụng máy tính có yếu tố, bắt buộc phải sử dụng Internet, lạm dụng Internet, sử dụng Internet có hại và nhờ vào vào Internet .
Các triệu chứng về sức khỏe thể chất gồm có mạng lưới hệ thống miễn dịch suy yếu do thiếu ngủ, mất tập thể dục, tăng rủi ro tiềm ẩn mắc hội chứng ống cổ tay và căng thẳng mệt mỏi ở mắt và sống lưng. [ 11 ]Các triệu chứng cai nghiện hoàn toàn có thể gồm có kích động, trầm cảm, tức giận và lo ngại khi người bệnh bị buộc phải rời xa công nghệ tiên tiến. Các triệu chứng tâm ý này thậm chí còn hoàn toàn có thể chuyển thành những triệu chứng sức khỏe thể chất như tim đập nhanh, stress ở vai và khó thở. [ 11 ]
Nghiện game show điện tử là một yếu tố được biết đến trên toàn quốc tế. Tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng tăng lên vào những năm 2000, với sự sinh ra của công nghệ tiên tiến băng thông rộng, những game show được cho phép tạo hình đại diện thay mặt, game show ‘ đời thứ hai ‘ và MMORPG ( game show nhập vai trực tuyến nhiều người chơi ). World of Warcraft có hội đồng MMORPG trực tuyến lớn nhất và đã có 1 số ít điều tra và nghiên cứu về chất gây nghiện của game show. Người nghiện của game show gồm có từ trẻ nhỏ đến người lớn trưởng thành. Một ví dụ nổi tiếng là Ryan van Cleave, một giáo sư ĐH có đời sống sa sút khi ông tham gia vào game show trực tuyến. [ 12 ] Andrew Doan, MD, PhD, một bác sĩ có nền tảng nghiên cứu và điều tra về khoa học thần kinh, đã chiến đấu với cơn nghiện game show điện tử của chính mình, khi ông góp vốn đầu tư hơn 20.000 giờ chơi game trong thời hạn chín năm. [ 13 ]Nghiện chơi game trực tuyến hoàn toàn có thể được xem xét dựa trên kim chỉ nan về điều kiện kèm theo hoạt động giải trí của BF Skinner, trong đó công bố rằng tần suất của một hành vi nhất định có tương quan trực tiếp đến việc khen thưởng và trừng phạt hành vi đó. Nếu một hành vi được khen thưởng, nó có nhiều năng lực được lặp lại. Nếu nó bị trừng phạt, nó sẽ bị ức chế. [ 14 ]Orzack, một nhà tâm lý học lâm sàng tại Bệnh viện McLean ở Massachusetts công bố rằng 40 % người chơi World of Warcraft ( WoW ) bị nghiện. Orzack nói rằng cách tốt nhất để tối ưu hóa hành vi mong ước của đối tượng người tiêu dùng là phân phối phần thưởng cho hành vi đúng và sau đó kiểm soát và điều chỉnh số lần đối tượng người dùng được nhu yếu thể hiện hành vi đó trước khi phần thưởng được phân phối. Ví dụ, nếu một con chuột phải nhấn vào một thanh để nhận thức ăn, thì nó sẽ nhấn nhanh hơn và tiếp tục hơn nếu nó không biết nó cần nhấn thanh đó bao nhiêu lần. Một thứ tương tự trong World of Warcraft sẽ là những giọt chiến lợi phẩm màu tím ( đỉnh điểm ). [ 15 ] Người chơi trong World of Warcraft thường sẽ dành hàng tuần để săn tìm một vật phẩm đặc biệt quan trọng dựa trên mạng lưới hệ thống may rủi, đôi lúc chỉ có 0,01 % năng lực nó bị rơi bởi một con quái vật đã giết. Độ hiếm của vật phẩm và độ khó kiếm được vật phẩm mang lại cho người chơi một vị thế trong số những đồng nghiệp của họ khi họ có được vật phẩm đó .Jim Rossignol, một nhà báo kinh tế tài chính chuyên báo cáo giải trình về game show trên Internet đã miêu tả cách anh vượt qua cơn nghiện của chính mình và biến sự tự phát của mình thành một hướng đi đáng mơ ước với tư cách là một phóng viên báo chí về game show trên Internet và văn hóa truyền thống chơi game. [ 16 ]
Rối loạn nghiện tiếp xúc ( CAD ) là một rối loạn hành vi được cho là tương quan đến sự thiết yếu của việc tiếp xúc liên tục với người khác, ngay cả khi không có nhu yếu thiết thực về tiếp xúc đó. CAD có tương quan đến chứng nghiện Internet. [ 17 ] Người dùng trở nên nghiện những yếu tố xã hội của Internet, ví dụ điển hình như Facebook và YouTube. Người dùng trở nên nghiện tiếp xúc một đối một hoặc nhóm dưới hình thức tương hỗ xã hội, những mối quan hệ và vui chơi. Tuy nhiên, can thiệp vào những hoạt động giải trí này hoàn toàn có thể dẫn đến xung đột và cảm xúc tội lỗi. Loại nghiện này được gọi là lạm dụng mạng xã hội .
Nghiện mạng xã hội là sự phụ thuộc của con người bằng cách kết nối, cập nhật và kiểm soát trang mạng xã hội của họ và bạn bè của họ.[18] Đối với một số người, trên thực tế, điều quan trọng duy nhất là có nhiều bạn bè trong mạng lưới bất kể họ ngoại tuyến hay chỉ ảo; điều này đặc biệt đúng đối với thanh thiếu niên như một sự củng cố cái tôi.[19][20] Đôi khi thanh thiếu niên sử dụng mạng xã hội để thể hiện hình ảnh lý tưởng của mình với người khác.[21] Tuy nhiên, các nghiên cứu khác cho rằng mọi người đang sử dụng mạng xã hội để truyền đạt tính cách thực của họ chứ không phải để quảng bá bản sắc lý tưởng của họ.[22]
Nghiện thực tế ảo là chứng nghiện sử dụng thực tế ảo hoặc môi trường ảo, nhập vai. Hiện tại, phương tiện ảo tương tác (chẳng hạn như mạng xã hội) được gọi là thực tế ảo,[23] trong khi thực tế ảo tương lai đề cập đến môi trường hoặc thế giới được mô phỏng bằng máy tính, nhập vai. Các chuyên gia cảnh báo về sự nguy hiểm của thực tế ảo và so sánh việc sử dụng thực tế ảo (cả ở dạng hiện tại và trong tương lai) với việc sử dụng ma túy, mang đến những so sánh lo ngại rằng, giống như ma túy, người dùng có thể bị nghiện thực tế ảo.[cần dẫn nguồn]
Có quan điểm cho rằng người có những khó khăn vất vả giữa những cá thể như hướng về trong, những yếu tố xã hội, [ 24 ] và kiến thức và kỹ năng tiếp xúc đương đầu kém, [ 25 ] thường dẫn đến nghiện internet. Các mối quan hệ dựa trên Internet cung ứng một giải pháp thay thế sửa chữa bảo đảm an toàn cho những người gặp khó khăn vất vả nói trên để thoát khỏi sự khước từ và lo ngại tiềm ẩn khi tiếp xúc giữa những cá thể trong đời sống thực. [ 26 ]
Những cá thể thiếu liên kết xã hội và tương hỗ xã hội có rủi ro tiềm ẩn cao bị nghiện Internet. Họ sử dụng những mối quan hệ ảo và tương hỗ để giảm bớt sự đơn độc của mình. [ 27 ] [ 28 ] Trên trong thực tiễn, những ứng dụng phổ cập nhất trong số những người nghiện Internet là phòng trò chuyện, game show tương tác, gửi tin nhắn nhanh hoặc mạng xã hội. [ 26 ] Một số điều tra và nghiên cứu thực nghiệm cho thấy xung đột giữa cha mẹ và con cháu và không sống cùng mẹ có tương quan đáng kể đến nghiện internet sau một năm. [ 29 ] Các yếu tố bảo vệ như tiếp xúc có chất lượng giữa cha mẹ và con cháu [ 30 ] và sự tăng trưởng tích cực của thanh thiếu niên [ 31 ], lần lượt được chứng tỏ để giảm rủi ro tiềm ẩn nghiện internet .
Tiền sử gây nghiện hoặc chứng bệnh tinh thần trước đó được phát hiện có ảnh hưởng tác động đến năng lực nghiện Internet. [ 29 ] [ 32 ] Một số người có yếu tố tinh thần trước đó như trầm cảm và lo ngại chuyển sang những hành vi lạm dụng để tránh những cảm hứng không dễ chịu và trường hợp của những yếu tố tinh thần của họ và coi nghiện Internet là một giải pháp sửa chữa thay thế bảo đảm an toàn hơn cho khuynh hướng nghiện chất gây nghiện. Nhưng nhìn chung vẫn chưa rõ ràng từ điều tra và nghiên cứu hiện có đâu là nguyên do và đâu là hậu quả một phần do thực tiễn là bệnh đi kèm là thông dụng ở những người nghiện Internet .Các bệnh đồng mắc phổ cập nhất có tương quan đến IAD là trầm cảm chính và rối loạn tăng động giảm quan tâm ( ADHD ). Tỷ lệ ADHD và IAD phối hợp cao tới 51,6 %. [ 33 ]Những người nghiện Internet không có tiền sử gây nghiện hoặc tinh thần đáng kể trước đây được cho là tăng trưởng chứng nghiện 1 số ít tính năng của việc sử dụng Internet : ẩn danh, năng lực truy vấn thuận tiện và thực chất tương tác của nó. [ 26 ]
Với sự mới lạ của Internet và định nghĩa không đồng nhất về chứng rối loạn nghiện Internet, việc chẩn đoán trong thực tiễn vẫn chưa rõ ràng. Với nghiên cứu và điều tra tiên phong do Kimberly S. Young khởi xướng vào năm 1996, nghiên cứu và điều tra khoa học về chứng nghiện Internet chỉ đơn thuần sống sót hơn 20 năm. [ 35 ] Một số trở ngại đang có trong việc tạo ra một giải pháp chẩn đoán vận dụng cho chứng rối loạn nghiện Internet .
Tỷ lệ mắc bệnh cao: Nghiện Internet thường đi kèm với các rối loạn tâm thần khác như rối loạn nhân cách và chậm phát triển trí tuệ. [26] [37] [38] [39] [40] Người ta thấy rằng nghiện Internet đi kèm với chẩn đoán DSM-IV khác 86% thời gian. [41] Trong một nghiên cứu được thực hiện ở Hàn Quốc, 30% số người nghiện Internet được xác định có các triệu chứng đi kèm như lo lắng hoặc trầm cảm và 30% khác mắc chứng rối loạn thứ hai như rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). [42] Một nghiên cứu khác ở Hàn Quốc cho thấy trung bình 1,5 chẩn đoán khác ở những người nghiện internet ở tuổi vị thành niên. [41] Hơn nữa, người ta ghi nhận ở Hoa Kỳ rằng nhiều bệnh nhân chỉ nhờ đến sự trợ giúp y tế khi gặp khó khăn mà họ cho là do các rối loạn khác. [26] [41] Đối với nhiều cá nhân, việc lạm dụng Internet quá mức hoặc không thích hợp là biểu hiện của chứng trầm cảm, rối loạn lo âu xã hội, rối loạn kiểm soát xung động hoặc bệnh lý cờ bạc. [43] Nhìn chung vẫn chưa rõ ràng từ các tài liệu hiện có liệu các rối loạn tâm thần khác là nguyên nhân hay biểu hiện của chứng nghiện Internet.
Công cụ dựa trên DSM
Hầu hết các tiêu chí được sử dụng bởi nghiên cứu là sự thích nghi của các rối loạn tâm thần được liệt kê (ví dụ: cờ bạc bệnh lý) trong cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM).[43]
Tiến sĩ Ivan K. Goldberg, người đầu tiên đưa ra khái niệm nghiện Internet, đã thông qua một số tiêu chí cho chứng nghiện internet trên cơ sở DSM-IV, bao gồm “hy vọng tăng thời gian trên mạng” và “mơ về mạng”.[44] Bằng cách điều chỉnh các tiêu chí DSM-IV cho bệnh lý cờ bạc, Tiến sĩ Kimberly S. Young (1998) đã đề xuất một trong những bộ tiêu chí tích hợp đầu tiên, Bảng câu hỏi chẩn đoán (YDQ), để phát hiện chứng nghiện Internet. Một người đáp ứng bất kỳ năm trong tám tiêu chí được điều chỉnh sẽ bị coi là nghiện Internet:[45][46][47]
Mối bận tâm với Internet;
Nhu cầu tăng thời gian trực tuyến để đạt được mức độ hài lòng tương tự;
Nhiều nỗ lực để hạn chế sử dụng Internet;
Khó chịu, trầm cảm hoặc thay đổi tâm trạng khi việc sử dụng Internet bị hạn chế;
Thời gian trực tuyến lâu hơn dự kiến;
Đưa một công việc hoặc mối quan hệ vào tình thế nguy hiểm để được sử dụng Internet lâu hơn;
Nói dối người khác về lượng thời gian trực tuyến; và
Sử dụng Internet như một phương tiện điều chỉnh tâm trạng.
Trong khi nhìn nhận YDQ của Young so với chứng nghiện internet có ưu điểm là đơn thuần và dễ sử dụng, Keith W. Beard và Eve M. Wolf ( 2001 ) khẳng định chắc chắn thêm rằng toàn bộ năm tiên phong ( theo thứ tự trên ) và tối thiểu một trong ba phân phối những tiêu chuẩn ( theo thứ tự trên ) để phân định thực trạng nghiện Internet nhằm mục đích nhìn nhận khách quan và tương thích hơn. [ 48 ]
Young tiếp tục mở rộng bài đánh giá YDQ gồm tám câu hỏi của mình cho Bài kiểm tra Nghiện Internet (IAT) được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay,[45][49][50] bao gồm 20 mục với mỗi mục trên thang điểm Likert năm điểm. Các câu hỏi trong IAT mở rộng dựa trên bài đánh giá tám câu hỏi trước đó của Young chi tiết hơn và bao gồm các câu hỏi như “Bạn có trở nên phòng thủ hoặc bí mật khi bất kỳ ai hỏi bạn làm gì trên mạng không?” và “Bạn có thấy mình dự đoán khi bạn trực tuyến trở lại không?”. Bạn có thể tìm thấy danh sách đầy đủ các câu hỏi trong cuốn sách Caught in the Net: How to Recognize the Signs of Internet Addiction and A Winning Strategy for Recovery năm 1998 của Tiến sĩ Kimberly S. Young và Tiến sĩ. Bài báo năm 2004 của Laura Widyanto và Mary McMurran có tiêu đề The Psychometric Properties of the Internet Addiction Test. Điểm test nằm trong khoảng từ 20 đến 100 và giá trị cao hơn cho thấy việc sử dụng Internet có vấn đề hơn:
20–39 = người dùng Internet trung bình,
40–69 = người dùng Internet có thể có vấn đề và
70–100 = người dùng Internet có vấn đề.
Mặc dù các phương pháp sàng lọc khác nhau được phát triển từ các bối cảnh đa dạng, nhưng bốn yếu tố đã thể hiện trên tất cả các công cụ:[36][60]
Sử dụng quá mức: cưỡng chế sử dụng Internet và sử dụng thời gian trực tuyến quá mức;
Các triệu chứng cai nghiện: các triệu chứng cai nghiện bao gồm các cảm giác như trầm cảm và tức giận, khi sử dụng Internet hạn chế;
Khả năng chịu đựng: nhu cầu về thiết bị tốt hơn, tăng cường sử dụng internet và nhiều ứng dụng / phần mềm hơn;
Hậu quả tiêu cực : Sử dụng Internet gây ra những hậu quả tiêu cực ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm cả hiệu suất có vấn đề trong các lĩnh vực xã hội, học tập hoặc công việc.
Gần đây, các nhà nghiên cứu Mark D. Griffiths (2000) và Tiến sĩ Jason C. Northrup và các đồng nghiệp (2023) khẳng định rằng Internet đơn giản chỉ là phương tiện và rằng mọi người thực sự nghiện các quy trình được tạo điều kiện bởi Internet.[60][61] Dựa trên Thử nghiệm Nghiện Internet của Young (IAT),[45] Northrup và các cộng sự phân tích thêm biện pháp nghiện Internet thành bốn quá trình gây nghiện: Chơi trò chơi điện tử trực tuyến, mạng xã hội trực tuyến, hoạt động tình dục trực tuyến và lướt web.[60] Thử nghiệm Nghiện Quá trình Internet (IPAT) [60] được tạo ra để đo lường các quá trình mà các cá nhân nghiện.
Các giải pháp sàng lọc dựa nhiều vào tiêu chuẩn DSM đã bị một số ít điều tra và nghiên cứu cáo buộc là thiếu đồng thuận, cho thấy rằng những tác dụng sàng lọc được tạo ra từ những giải pháp trước đó dựa trên tiêu chuẩn DSM là không đồng điệu với nhau. [ 7 ] Do những điều tra và nghiên cứu được triển khai trong những toàn cảnh khác nhau, những nghiên cứu và điều tra liên tục sửa đổi thang đo cho những mục tiêu riêng của chúng, do đó đặt ra thử thách hơn nữa so với việc tiêu chuẩn hóa trong việc nhìn nhận chứng rối loạn nghiện Internet. [ 62 ]
Đất Sét – Wikipedia Tiếng Việt
Các nghĩa khác của sét, xem bài xu thế : Sét ( xu thế )
Vách núi Gay Head tại Martha’s Vineyard gần như hàng loạt là đất sét .
Đất sét hay sét là một thuật ngữ được dùng để miêu tả một nhóm các khoáng vật phyllosilicat nhôm ngậm nước (xem khoáng vật sét), thông thường có đường kính hạt nhỏ hơn 2 μm (micromét). Đất sét bao gồm các loại khoáng chất phyllosilicat giàu các oxide và hiđroxide của silic và nhôm cũng như bao gồm một lượng lớn nước tham gia vào việc tạo cấu trúc và thay đổi theo từng loại đất sét. Đất sét nói chung được tạo ra do sự phong hóa hóa học của các loại đá chứa silicat dưới tác động của acid cacbonic nhưng một số loại đất sét lại được hình thành do các hoạt động thủy nhiệt. Đất sét được phân biệt với các loại hạt đất đá nhỏ khác có trong đất, chẳng hạn như bùn nhờ kích thước nhỏ của chúng, hình dạng tạo bông hay tạo lớp, khả năng hút nước cũng như chỉ số độ dẻo cao.
Trong các nguồn tài liệu khác nhau, người ta chia đất sét ra thành ba hay bốn nhóm chính như sau: kaolinit, montmorillonit-smectit, illit và chlorit (nhóm cuối cùng không phải lúc nào cũng được coi là một phần của đất sét và đôi khi được phân loại như là một nhóm riêng, trong phạm vi phyllosilicat). Có khoảng 30 loại đất sét ‘nguyên chất’ khác nhau trong các nhóm này, nhưng phần lớn đất sét ‘tự nhiên’ là các hỗn hợp của các loại khác nhau này, cùng với các khoáng chất đã phong hóa khác.
Bạn đang đọc: Đất sét – Wikipedia tiếng Việt
Montmorillonit, với công thức hóa học (Na,Ca)0,33(Al,Mg)2Si4O10(OH)2·nH2O, thông thường là sản phẩm được tạo ra từ phong hóa của các loại đá nghèo silica. Montmorillonit là thành viên của nhóm smectit và là thành phần chính trong bentonit.
Đất sét phiến hàng năm là loại đất sét với các lớp tạo ra hàng năm thấy rõ được, được hình thành bởi sự khác biệt theo mùa trong sự xói mòn và hàm lượng chất hữu cơ. Dạng này của trầm tích là phổ biến trong các hồ băng cũ từ thời kỳ kỷ băng hà.
Đất sét Leda là loại duy nhất của đất sét vùng biển, thuộc loại địa phương của địa hình bị băng hà xói mòn thuộc Na Uy, Canada và Thụy Điển. Nó là loại đất sét có độ nhạy cao, dễ chuyển thành thể nhão, là nguyên do gây ra một vài vụ lở đất nguy hại .
Đất sét là chất mềm dẻo khi ẩm, điều này có nghĩa là rất dễ tạo dạng cho nó bằng tay. Khi khô nó trở nên rắn chắc hơn và khi bị “nung” hay làm cứng bằng nhiệt độ cao, đất sét trở thành rắn vĩnh cửu. Thuộc tính này làm cho đất sét trở thành một chất lý tưởng để làm các đồ gốm sứ có độ bền cao, được sử dụng cả trong những mục đích thực tế cũng như dùng để làm đồ trang trí. Với các dạng đất sét khác nhau và các điều kiện nung khác nhau, người ta thu được đất nung, gốm và sứ. Loài người đã phát hiện ra các thuộc tính hữu ích của đất sét từ thời tiền sử và một trong những đồ tạo tác sớm nhất mà người ta đã biết đến là các bình đựng nước làm từ đất sét được làm khô dưới ánh nắng mặt trời. Phụ thuộc vào các hợp chất có trong đất, đất sét có thể có nhiều màu khác nhau, từ màu trắng, xám xịt tới màu đỏ-da cam sẫm.
Đất sét được nung kết trong lửa đã tạo ra những đồ gốm sứ tiên phong và lúc bấy giờ nó vẫn là một trong những vật tư rẻ tiền nhất để sản xuất và sử dụng thoáng đãng nhất. Gạch, ngói, những xoong nồi từ đất, những đồ tạo tác thẩm mỹ và nghệ thuật từ đất, bát đĩa, thân bugi và thậm chí còn cả những nhạc cụ như đàn ocarina đều được làm từ đất sét. Đất sét cũng được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp, ví dụ điển hình trong sản xuất giấy, xi-măng, gốm sứ và những bộ lọc hóa học .Đất sét còn được sử dụng làm vật tư chống thấm nước cho những khu công trình thủy lợi : cống rãnh, đập ngăn nước ….
Danh pháp khoáng chất đất sét trong American Mineralogist.
Cập nhật thông tin chi tiết về Chủ Nghĩa Yêu Nước – Wikipedia Tiếng Việt trên website Ycet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!